Friday, August 21, 2009

Tình Chiến Hữu Nghĩa Chí Binh QLVNCH

Thiếu Tá Phi Công Nguyễn Qúy An thuộc Phi Đoàn 219, Sở Không Yễm Nha Kỹ Thuật/QLVNCH bị thương trong chuyến hành quân thả toán và đã để lại phần thân thể mình trên quê hương cũng như mang theo nhiều thương tích khác trên người. Anh biết tin cứu trợ Thương Phế Binh VNCH trên điện báo Take2Tango và đã gưĩ đến chúng tôi 1 tấm chi phiếu $200.00 nhờ trao lại cho anh Vũ Văn Đại và anh Đào Vĩnh Ký, khi chúng tôi đã báo tin này cho qúy anh Đại và anh Ký, các rất xúc động cũng lấy làm khích lệ vô cùng các anh sẽ viết thư riêng cho anh Nguyễn Qúy An, đây là một tin lớn cho các anh em Thương Binh bên nhà. Vì biết anh An luôn tự lập cánh sinh và đời sống cũng không dễ dàng cho mấy, tuy thế Anh luôn nghĩ đến những chiến hữu cùng cảnh ngộ và thông cảm vô vàng, tình huynh đệ nghĩa chí binh đã diễn đạt tất cả.

Thương Phế Binh Đào Vĩnh Ký, Đại Đội 1 Trinh Sát Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù bị thương ở Đồi 1062 Quận Thường Đức, Quảng Nam.

Thương Phế Binh Vũ Văn Đại Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù cùng bị thương tại Đồi 1062 Quận Thường Đức Quảng Nam




Kính gữi qúy ân nhân, Mạnh Thường Quân vừa trợ giúp 2 TPB..
Vũ Văn Đại và Đào Vĩnh Ký.
Kính gữi Cộng đồng Người Việt Tự Do Hải Ngoại .
Kính gưĩ qúy Niên Trưỡng, Qúy anh chị em cựu Q.N.cùng các Hội Đoàn QL/VNCH Hải Ngoại.
Kính Gưĩ Hội Ái Hữu Quân Trường Đồng Đế ở Mỹ
Đồng Kính Gưĩ báo điện tử Take 2 Tango.

Thưa Qúy Vị ! Trong niềm hân hoan. đầy phấn chấn, Tập thể TPB/VNCH tại quê hương, chung cùng vang tiếng nói… Xuyên qua lá thư nầy, gưĩ đến qúy vị.
Quý ân nhân kính mến !

Một thời gian dài ….nhiều năm đã trôi qua…Tình thương cùng cứu giúp của qúy vị luôn tiếp cận bên chúng tôi; Trên từng chặng đường khó khăn, trên từng bước sống khốn khổ, qúy vị tuy ở rất xa nơi Hải Ngoại, nhưng vẫn luôn lắng tiếng nghe rõ tiếng khổ của thương phế binh ở quê nhà ….rồi biết bao tấm lòng thiện nguyện biết bao nghĩa tình chiến hữu đã được thể hiện xuyên qua…liên tục những đợt tiền cứu giúp chúng tôi; và do đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho một số anh em trong chúng tôi giãm bớt đi nhiều khốn khó và đã được cải thiện được cuộc sống thay đổi tốt hơn.

Qúy vị kính mến !

Với kiếp sống tàn phế tủi nhục trong nhiều thống khổ gian truân, có những điều phải quên đi ….để được sinh tồn thân phận, lại có những điều luôn luôn phải nhớ, nhớ để được sống an lành, sống có ý nghĩa và sống có niềm tin yêu, hy vọng, chúng tôi nghĩ đến quý vị.

· Nhiều anh em tuy đôi mắt đã bị mù rồi, nhưng vẫn còn “đôi mắt” của cái TÂM, để có thể nhìn thấy rõ được ….cãm nhận rõ được….nhiểu sự cắt xén tiện nghi, nhu cầu cá nhân của qúy vị để có được tiền dư ra, rồi qúy vị đã cùng quyên góp lại với nhau cho có thật nhiều …đặng gơỉ vể đây giúp đở cho anh em chúng tôi.

Có rất nhiều thương phế binh tuy đã cụt mất hai tay không còn làm việc để kiếm ăn được nữa, nhưng mỗi khi nghĩ nhớ đến qúy vị…Vẫn có được niềm vui ấm lòng và sự an ổn, khi biết rằng … nơi Hải Ngoại có biết bao nhiêu là cánh tay ra sức làm việc, những đôi tay chịu nhiều khó nhọc trong lao động để kiếm ra tiền và qúy vị đã tằng tiện cho có dư ra được để gữi về đây biếu tặng vô điều kiện cho chúng tôi.

Lại có nhiều anh em thương phế binh tuy đã cụt trụi lũi hai đôi chân, không còn đi đứng được nữa, nhưng vui làm sao và cãm kích làm sao….Khi biết rõ được là ….nơi đất khách quê người, có biết bao là đôi chân đứng vững trên nền tãng nghĩa tình huynh đệ chi binh, những đôi chân mạnh mẽ trong bước đi……trên hành trình thiện nguyện, toả sáng tình thương, hiện thực cứu giúp, và nhờ những đôi chân như thế …Anh em thương phế binh nơi quê nhà mới có được những viên thuốc tốt chữa bệnh, có được miếng ăn ngon bồi dưỡng sức khỏe, có được phương tiện chinh phục khó khắn và sống có ý nghĩa trong tình thương bảo dưỡng của ân nhân, trong nghĩa tình đùm bọc của qúy anh chị em trong cùng huyết thống VNCH và chúng tôi, trong phần đời còn lại, không bao giờ quên được .

Quý vị Kính mến !

Vừa qua có 2 TPB tàn phế nặng, của cuộc sống nhiều khốn khổ, và hoàn cảnh của 2 anh em nầy đã được HộI Ái Hữu Quân Trường Đồng Đế đón nhận, chuyễn tiếp đến báo điện tử Take 2 Tango phổ biến và kêu gọi sự giúp đở của ân nhân và từ ngày

06.08.2009 cho đến ngày 16.08.2009.

Thương Phế Binh Vũ Văn Đại đã nhận được sụ giúp đỡ của các ân nhân:

Huỳnh Công Phát $100.00 đô Canada
Phan Vĩnh Thạnh $100.00 U.S. dollars
Nguyễn An Thiên (GĐMĐ/TĐ3 Dù) $100.00 U.S. dollars
Lê Cường $50.00 U.S. dollars
Huỳnh Văn Thạnh (GĐMĐ TĐ1 Dù) $50.00 Cô Thảo chuyển đến.
Nguyễn Đức Luân $50.00 U.S. dollars
Đổ Thị Phụng $250.00 U.S. dollars
Nguyễn Văn Mùi GĐMĐ $100.00

Thương Phế Binh Đào Vĩnh Ký đã nhận được nghĩa tình giúp đở của các ân nhân sau: Hồng Văn Nguyễn $50.00 đô Úc = 746.000 $VN
Nguyễn Đức Luận $50.00 U.S. dollars
Phan Vĩnh Thạnh $100.00 U.S. dollars
Lê Cường $50.00 U.S. dollars
Phùng Văn Thạnh $50.00 U.S. dollars
Nguyễn An Thiên $100.00 U.S. dollars
Thần Ưng Berlin Nguyễn Đức Phong 1.940.000 $VN
Đổ Thị Phụng $250.00 U.S. dollars
Nguyễn Thanh Nhàn $300.00 U.S. dollars

Mượn trang giấy nầy để thầm gọi tên qúy ân nhân trên, TPB Vũ Văn Đại và Đào Vĩnh Ký cùng anh em chúng tôi với tâm trạng nhiều xúc động, đầy lòng biết ơn…

Xin gưĩ đến qúy vị tất cả lời nguyện cầu tốt đẹp nhất.

Việt Nam ngày 16.08.2009

Kính Thư

Tập Thể Thương Phế Binh quê nhà

Tái Bút : Nhờ ân nhân trợ giúp tpb/ VŨ VĂN ĐẠI đã sửa được chiếc xe gắn máy, dành cho người tàn tật, nhờ chiếc xe này, Đại có phương tiện đi kiếm ăn, tự lực mưu sinh.





Sunday, August 16, 2009

Mang các anh về miền đất tự do



Anh Linh Chiến Sĩ Thuộc Phi Ðoàn Long Mã 219
Đã An Nghĩ Tại Nghĩa Trang Quốc Gia Hoa Kỳ

(Arlington Cemetery, VA) - Mọi người lặng im theo dõi từng cử động của Anh Hạ Sĩ Quan trong ban nghi lễ, trên tay mang lá cờ Việt Nam Cộng Hòa, tiến đến thân nhân phi hành đoàn 219 trên chiếc trực thăng H34, bị rơi vào ngày 18 tháng 10 năm 1965. Đánh dấu lần thứ tư Quốc Táng hài cốt chiến binh Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa (Standard Honors Funeral for Vietnam Group Burial) đã được trọng thể tổ chức tại nghĩa trang Quốc Gia Arlington vào ngày 25 tháng 6 vừa qua với sự tham dự đông đảo của các cựu quân nhân QLVNCH, Hoa Kỳ và nhân sĩ vùng Hoa Thịnh Ðốn.


Được biết vào ngày 18 tháng 10 năm 1965, trên chuyến bay định mệnh cất cánh từ Khâm Đức đưa Thiếu Tá Larry Thorne "nhảy" vào lòng đất địch, phi hành đoàn gồm có hai phi công là Trung Uý Phan Thế Long, Trung Uý Nguyễn Bảo Tùng và một xạ thủ là Thượng Sĩ Bùi Văn Lành, đã bị rớt vì mây mù, (As many of you are aware Larry was lost in the clouds on 18 Oct.'65 on a CH-34 "KINGBEE" helicopter from the 219th Vietnamese Air Force Squadron - trích từ tài liệu www.pownetwork.org/bios/t/t375.htm) cách thành phố Đà Nẵng 25 dậm về hướng Tây Nam (tọa độ 152558N 1074744E, YC895105). Ngay sau đó liên tiếp có nhiều cuộc dọ thám để truy tìm các di hài của các chiến sĩ trên chuyến bay này nhưng không có kết quả. Chỉ duy có các di tích như súng cá nhân Swedish "K" SMG (Thuỵ Điển chế tạo) của ông Thorne là được tìm thấy gần địa điễm các hài cốt được thấy sau này. Vào năm 1999 nhờ các toán tìm kiếm MIA đã giúp việc truy danh những anh hùng tại phòng lab ở Hawaii. Trường hợp Thượng Sĩ Bùi Văn Lành không có thử nghiệm DNA vì nhờ tìm được tấm thẻ bài. Cho đến hôm nay Hoa Kỳ không hề có một liên lạc nào với gia đình hay người thân của Anh Lành.

Vào năm 1938, Ông Larry được danh tặng là Chiến Sĩ Chống Cộng. Ông đã từng chiến đấu từ những ngày ở Phần Lan trong Đệ Nhị Thế Chiến. Ông từng tham gia lực lượng SS của Đức chống CS Nga. Sau khi Đệ II Thế Chiến chấm dứt, Ông Thorne di tản sang Hoa Kỳ và gia nhập quân đội vào ngày 28 tháng 1 năm 1954. Vào cuối năm 1954, Ông được tuyển vào Lực Lượng Biệt Cách Dù đội nón xanh (Green Beret) và được thụ huấn tại Fort Bragg North Carolina. Sau đó nhảy toán phục vụ tại Tây Đức và Iran. Cuối cùng Thiếu Tá Larry Thorne đến Việt Nam vào tháng 11 năm 1963 và vĩnh viễn ở lại nơi ấy vào ngày 18 tháng 10 năm 1965.

Nếu nói về sự hy sinh của các biệt kích Hoa Kỳ thì phải nói đến sự can trường và lòng dũng cảm của các Anh Hùng thuộc phi đoàn 219 Không Quân Việt Nam. Đặc biệt xin ghi nhận nơi đây những anh hùng như Bùi Văn Lành, Phan Thế Long và Nguyễn Bảo Tùng. Theo tài liệu Đỗ Văn Hiếu, đầu năm 1964, KQ có 3 trực thăng H-34 biệt phái làm việc với Lực Lượng Đặc Biệt Delta ở Nha Trang. Nhiệm vụ của biệt đội này là thả các toán thám sát dọc theo biên giới Việt Miên hoặc vào các mật khu của Việt cộng. Đến giữa năm 64 một biệt đội khác cũng gồm 3 chiếc trực thăng H-34 biệt phái làm việc với các chiến đoàn Xung kích, thuộc Sở Liên Lạc/TTM, và nhiệm vụ của biệt đội này là thả các toán thám sát Lôi Hổ về phía bên kia biên giới Miên Lào để kiểm soát các hoạt động của địch quân. Đầu năm 1966 hai biệt đội này xát nhập lại để thành lập Phi Đoàn 219, đồn trú trong nội vi phi trường Đà Nẵng. Phi Đoàn này trực thuộc Biệt Đoàn 83 ở TSN cho đến khi Biệt Đoàn giải tán vào năm 1969 thì trực thuộc KĐ 41 CT. Bộ chỉ huy đầu tiên của Phi Đoàn 219 gồm: Đại úy Hồ bảo Định, Đại úy Trần văn Luân, Đại úy Nguyễn văn Nghĩa, Đại úy Nguyễn phi Hùng, Trung úy Nguyễn hữu Lộc, Trung úy Đỗ văn Hiếu. Sau khi thành lập Phi Đoàn 219 vẫn giữ nhiệm vụ thả các toán thám sát Lôi Hổ bên kia biên giới Miên Lào trong lãnh thổ quân khu I và II.

Trên trang nhà www.specialoperations.com, họ đã danh tặng những anh hùng Không Quân Việt Nam như sau: "219th Helicopter Squadron, Vietnamese Air Force (VNAF) - This page is dedicated to the brave, exceptional young Vietnamese Pilots, Copilots, Crew Chiefs, Gunners of the 219th by the men of SOG. We owe you a deep sense of gratitude, appreciation, and thanks, which these words can never fully express. We each hold you dear in a special place in our hearts. You are not forgotten!" Trong trang này đã nhắc đến Tướng Nguyễn Cao Kỳ là một trong những sĩ quan không quân ưu tú của QĐVNCH. Thời bấy giờ ông mới 31 tuổi mà đã nắm vai trò lãnh đạo quan trọng và hơn thế Tướng Kỳ "Willing to fly anything and everything, anywhere!".

Nguồn gốc 219 là Biệt Đoàn 83 "Thần Phong" do Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ thành lập, 83rd SOG (Special Operation Group). Nhiệm vụ chính của Biệt Đoàn là thi hành các phi vụ đổ biệt kích ra Bắc, Hạ Lào và một số phi vụ "cảm tử" khác. Có lẽ vì tính cách "đi dễ về khó" ấy, biệt đoàn đã lấy danh hiệu Thần Phong (tức Thần Phong Cảm Tữ, giống như các phi công Kamikaze của Nhật trong thế chiến thứ hai).

Sau khi Thiếu Tướng Kỳ tham chính, Biệt Đoàn 83 Thần Phong đương nhiên trở thành một lực lượng trung kiên, một hậu thuẩn của ông. Chính vì thế, sau khi lên làm Tổng Thống, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu đã ra lịnh giải tán Biệt Đoàn này vào năm 1968. Phi cơ và nhân sự được phân phối đi các đơn vị khác, hoặc thành lập đơn vị mới. Riêng các phi công trực thăng thì trở thành lực lượng nồng cốt của một đơn vị tân lập: Phi Đoàn 219, nhiệm vụ không thay đổi: đổ biệt kích.

Phi đoàn 219 đồn trú tại căn cứ KQ Đànẵng (KĐ41CT) nhưng nhân viên thì ở tại biệt thự số 8, đường Nguyễn Thị Giang ngoài thành phố. Sở dĩ có chuyện đó là vì phi đoàn chỉ trực thuộc KĐ41 về quân số (hành chánh, tài chánh) mà thôi. Còn về hoạt động, phi đoàn được điều động bởi Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ.

Địa bàn hoạt động chính yếu là từ những điểm xuất phát ở Khe Sanh, Kontum (B15) và Non Nước (Đà Nẵng) hành quân từ vĩ tuyến 17 dọc theo đường mòn Hồ-chí-Minh vào lãnh thổ nam ViệtNam, A Sao, A Lưới, Dakto, Tân Cảnh, Ngả Ba Tam Biên và sau nầy kéo dài xuống tới Ban-Mê-Thuột, Quản Lợi, Long Thành.

Các phi cơ H-34 Choctaw của phi đoàn được sơn ngụy trang màu rằn ri, màu của lực lượng đặc biệt và không mang bất cứ phù hiệu nào, trừ hàng số nhỏ ở đuôi phi cơ để nhận dạng mà thôi. Nhiệm vụ của phi đoàn là thả các toán biệt kích để kiểm soát, khám phá và theo dõi mọi vận chuyển của địch vào lãnh thổ của VNCH. Khi hành quân, phi đoàn lấy danh hiệu là "King Bee" để tiện việc phối hợp với phía Hoa Kỳ, vì thế đối với các chiến sĩ biệt kích (Lôi Hổ), danh hiệu "King Bee" đã trở thành quen thuộc và luôn luôn gắn bó với họ. Những toán biệt kích, mỗi lần công tác, quân số không quá 7 người và được ngụy trang bằng quân phục và vũ khí của địch (súng AK 47). Thời gian công tác của mỗi toán không quá 7 ngày.


Thời gian sau, Mỹ rút quân, tất cả các phi vụ của phi đoàn 219 đều được đặt dưới quyền của Nha Kỷ Thuật do Đại Tá Đoàn Văn Nu làm Giám đốc và Đại Tá Dư Quốc Lương làm Chánh Sở Không Yễm. Phi đoàn làm việc sát cánh với Sở Liên Lạc của Nha Kỷ Thuật, mà sau gọi là trại Nguyễn Cao Vỹ (lấy tên cố Thiếu Tá Nguyễn Cao Vỹ tử nạn ở Khe Sanh).

Tưởng củng nên nhắc lại các vị anh hùng nổi tiếng của 219, cố Thiếu Tá Vũ Ðức Thắng biệt danh "Alain Delon".Thiếu Tá Nguyễn Quý An, hiện đang sinh sống tại San Jose, một phi đội trưởng anh hùng gia nhập 219 từ những ngày đầu. Trong phi đoàn 219, Thiếu Tá An là người nổi tiếng về tài điều khiển chiếc H-34 cùng với Thiếu Tá Nghĩa "con" (bị mất chiếc UH-1 tại Đà Lạt) cố Thiếu Tá Hùng, cố Thiếu Tá Hiệp "cồ", v.v...

Theo tài liệu Nghĩa Trang Arlington, vào tháng 3 năm 1990, đã có hai chiến sĩ Không Quân VNCH (không định được danh tánh) đã được an táng chung với Staff Sgt. Richard Fitts tại sec. 34 # 4524. Các Anh Hùng KQVN Vô Danh này mất tích ở Lào vào năm 1968. Vào dịp lễ Memorial năm 2000, hai chiến sĩ không quân khá c đã được an táng tại Arling c ù ng với Col. George William Jensen, Capt. Marshall Landis Tapp, Col. Lavern George Reilly, Maj. George Winton Thompson, CMSgt. James Arthur Preston CMSgt. James Ellis Williams, CMSgt. William Louis Madison, SMSgt. Kenneth Dewey McKenney. Ghi nhận "Although the identities of the two South Vietnamese crew members remain uncertain, their presence aboard Spooky 10 will be proudly acknowledged and their loyalty and military service will be given equal honor for the price that they have paid in the name of Freedom." Vào ngày 8 tháng 11 năm 2002, tại nghĩa trang Arlington, Thiếu Tá Bộ Binh Vũ Vành Pháo đã được an táng phần hài cốt còn lại với Major David Padgett, Captain Ronald Briggs, Sergeant 1st Class Robert O'Hara, Lieutenant Colonel Donald Parsons, Chief Warrant Officer Charles Stanley, Sergeant 1st Class Eugene Christiansen.

Theo tài liệu của Trần Ngọc Toàn, Nguyễn Bảo Tùng cùng gia đình tị nạn Cộng Sản di cư vào Nam năm 1954. Sau khi đổ Tú Tài anh tình nguyện gia nhập vào trường Võ Bị Ðà Lạt. Tại Võ Bị Ðà Lạt anh Tùng luôn đảm nhận các vai trò xướng ngôn trong các sinh hoạt văn nghệ và chương trình phát thanh hàng tuần của Trường Võ Bị . Giọng nói ấm áp , rõ ràng của anh trong những bài tế văn ở những buổi chiêu hồn tử sĩ như còn văng vẳng bên tai những cựu sĩ quan hiện diện lúc ấy. Vì nhu cầu sĩ quan ngoài chiến trường, khoá 16 Võ Bị được cho tốt nghiệp sớm một năm. Cùng với 27 tân sĩ quan vừa mới ra trường, Bảo Tùng đã tình nguyện phục vụ trong quân chủng Không Quân. Sau thời gian du học láy trực thăng bên Mỹ trở về, Bảo Tùng bắt đầu sự nghiệp bay bổng trên khắp bốn vùng chiến thuật. Do nhu cầu hành quân, Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ đã xin Không Quân VNCH tăng phái trực thăng để chở đổ quân trong các công tác bí mật , theo dõi, thu lượm tin tức hoạt động của Cộng Sản dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh, biên giới Việt Lào. Vợ con của Bảo Tùng đã đến định cư ở phụ cận Chicago năm 75, Mẹ và chị em của Bảo Tùng đã định cư ở Orange County năm 79. Nhờ có những người thân đang ở Mỹ nên việc xác nhận DNA của Bảo Tùng có thể thực hiện được dễ dàng.

Riêng Trung Uý Phan Thế Long, Ông có sáu người con. Sau khi được tin Ông mất tích bà Long ở vậy nuôi con. Bà hy vọng rồi có một ngày sẽ gặp lại chồng. Sự chờ đợi kéo dài cho đến tháng 5 năm 1984 thì bà Long từ trần. Theo Anh Phan Thế Dũng cai trai của Trung Uý Long, tâm sự tại buổi thăm viếng hài cốt ở nhà quàng Murphy Arlington vào ngày 24/6/2003, "Lúc bấy giờ tôi chưa tròn 4 tuổi, nhưng tiếng hét thất thanh của mẹ tôi khi nhận được tin đau buồn về cha tôi, đã vọng mãi trong tôi. Và tôi đã trưởng thành theo tiếng kêu tuyệt vọng đó cho đến ngày hôm nay". Anh tiếp, "Buổi lễ an táng hài cốt của bố tôi tại Arlington sẽ làm xoa dịu phần nào nổi đau khổ của mẹ tôi. Tôi từ nay sẽ an tâm vì biết được nơi thiên đường ấy bố tôi đã lo chu toàn cho mẹ tôi. Xin được cám ơn người bạn đồng minh Hoa Kỳ trong những giây phút khó quên nhất của cuộc đời tôi.".

Tại nghi lễ hôm 25 tháng 6 vừa qua, hai lá cờ VNCH đã được trao cho thân nhân của gia đình Trung Uý Phan Thế Long và Trung Uý Nguyễn Bảo Tùng. Riêng lá cờ thứ ba dành cho Sgt Bùi Văn Lành đã được mang về Fort Myer Casualty Affairs Office, theo email của Ông Tom Peske, Public Communications Team, U.S. Army Military District of Washington sau khi được hỏi về thân nhân của Anh Lành. Việc trao tặng Cờ Việt Nam Cộng Hoà rất quan trọng trong nghi thức Quốc Táng và được chú thích rất tường tận trong bản "Press release: Photo editor's note: An American flag will be presented to the next of kin of Thorne and three South Viet Nam flags will be presented to the next of kin for Nguyen, Phan and Bui.".

Võ Thành Nhân - VANN

Phi vụ Biệt kích




Phi vụ Biệt kích

Vào năm 1971, phi đoàn trực thăng 219 của Không Quân VNCH, lừng danh trong giới lực lượng Đặc Biệt Việt-Mỹ phải tạm ngưng hoạt động để xuyên huấn từ trực thăng H34 qua UH1.
Phi đoàn này chuyên phụ trách những phi vụ thả và bốc các toán Biệt Kích nằm trong vùng địch, dọc đường mòn HCM, có khi sâu vào biên giới Lào và Cao Mên.

Là những phi công tài ba, gan dạ.Với phương châm –« không bỏ anh em, không bỏ bạn bè » họ đã chu toàn những phi vụ hiểm nghèo cho các đơn vị biệt kích, dù có hy sinh, mất mát…
Vì tài ba và gan dạ, họ chính là niềm hy vọng cuối cùng đối với các toán biệt kích Việt-Mỹ trong lúc bị địch phát hiện và săn đuổi. Những lúc nguy cấp đó, các toán biệt kích rất tin tưởng ở khả năng của các phi công 219 và lên tinh thần khi thấy bóng dáng chiếc H34, vị cứu tinh của mình xuất hiện trên bầu trời…

Các phi đoàn UH1, ngoài công việc hằng ngày như liên lạc, tiếp tế, tải thương, đổ quân, bốc quân, gunship hộ tống và yểm trợ tác xạ cho tất cả các đơn vị bạn của QL VNCH, nay lại được giao phó thêm nhiệm vụ đổ và bốc các toán Biệt kích thay cho phi đoàn 219 trong thời gian chuyển tiếp.

Được lịnh biệt phái cho lực lượng Biệt Kích Dù đồn trú tại Quãng lợi gần thị xã An Lộc. Sáng tinh sương, khi mặt trời chưa ló dạng, Chúng tôi hai chiếc trực thăng UH1 rời Cần Thơ sát cánh nhau trực chỉ Quãng Lợi. Sau gần một giờ rưỡi bay, chúng tôi ghé phi trường Quãng Lợi, (nơi đồn trú của trung đoàn pháo binh nặng, và cũng là căn cứ trực thăng cùng tiếp liệu của Mỹ) đổ thêm xăng và về đáp tại trại lực lượng Biệt Kích Dù gần đó để túc trực làm việc cho họ…




Đang ngồi bên những ly cà phê nóng tại câu lạc bộ cuả trại, người thì chúi mũi vào tờ báo, kẻ khác thả hồn mình lãng đãng theo khói thuốc, chúng tôi giật mình vì tiếng trực thăng ầm ỹ trên đầu. Qua khung cửa kính lờ mờ đầy bụi đỏ, hai chiếc Cobra gunship của Mỹ cũng từ phi trường Quãng lợi đến và đang đáp gần hay chiếc UH1…

Tiên đoán trưa nay thế nào cũng có phi vụ cho biệt kích, trong lòng bỗng thấy hơi hồi hộp, tò mò, vì đây là phi vụ đầu tiên, đặc biệt và hoàn toàn mới lạ đối với chúng tôi. Từ lối điều quân bí mật, bất ngờ, nhanh và gọn của biệt kích đến lộ trình bay, bãi đáp đều không giống như cách thức thường làm khi yểm trợ cho các đơn vị bộ binh mà từ bao năm nay chúng tôi đã hằng ngày áp dụng. Cho nên tuy bề ngoài bình thản nhưng trong lòng chắc ai cũng có riêng mình một chút bâng khuâng…

Như dự đoán, một Thiếu úy Biệt kích Dù đến mời chúng tôi xuống phòng hành quân để họp. Có mặt tại phòng HQ là vị Đại úy trưởng trại, Thiếu úy thuyết trình viên, hai phi hành đoàn Mỹ và chúng tôi.
Thiếu úy thuyết trình viên trông rất thư sinh, đẹp trai, ăn nói hòa nhã và vui vẻ. Tôi không thể ngờ ông sĩ quan trẻ tuổi này lại đại diện cho một đơn vị dữ dằn, cảm tử, chuyên đi vào lòng đất địch, cái chết và sự tra tấn dã man mà địch sẽ dành cho mình lúc nào cũng rình rập một bên!!! Tôi thật sự có cảm tình và khâm phục đơn vị này.

Phần thuyết trình đại khái cho biết đơn vị mà chúng tôi sẽ bốc gồm bốn người, trưởng toán là một Thiếu úy. Tất cả đều bận quân phục của lính chính quy Bắc Việt, trang bị súng AK 47 của CS, chỉ có khác là thay vì đi dép râu thì họ lại xử dụng giày của quân đội VNCH, mang nhiều bidon nước và lựu đạn mini…
Họ dặn chúng tôi khi tới đón toán, nếu thấy khói trắng là bãi đáp an toàn, khói đỏ thì phải lập tức bay đi để bảo đảm sự toàn vẹn cho họ lẫn phi hành đoàn. Ban ngày có mặt trời, họ dùng kíếng phản chiếu, ban đêm họ dùng đèn chớp làm hiệu để đánh dấu vị trí. Chúng tôi, các phi công Mỹ và Thiếu úy Biệt kích trao đổi tần số làm việc với nhau. Danh hiệu chúng tôi là Eagle, Mỹ là Playboy, phi cơ hướng dẫn là Spartan. Họ cũng không quên nói rằng điạ điểm bốc biệt kích sẽ được giữ kín cho đến khi chúng tôi lên trời và sẽ được Spartan hướng dẫn.




Chúng tôi và phi công của hai chiếc Cobra sau khi thử tần số liên lạc với nhau, lần lượt cất cánh. Phi cơ VNAF bay hợp đoàn dẫn đầu và hai chiếc Cobra Mỹ theo sau, làm vòng chờ ở bốn ngàn bộ ngay trên căn cứ Quãng Lợi. Đúng giờ hẹn, một giọng khàn khàn vang lên trong nón bay và chúng tôi bắt đầu đối thoại:

- Eagle 1, this is Spartan, how do you read me - over
- This is Eagle 1, I read you loud and clear- over
- Eagle 1, I will present myself by flying in front of you, and shaking my wings - over

Sau khi thấy chiếc Spartan ở phiá trước đang lắc cánh, tôi bấm máy trả lời
- Spartan this is eagle 1, I have you in sight - over

Khi nghe như vậy chiếc Spartant quẹo gắt và biến mất về phía sau.
- Eagle 1 this is Spartan,I will guide you to the LZ -over
- Roger that, tôi trả lời
- Eagle 1 this is Spartan, heading 280 at 2000 feet -over
- Roger, heading 280, at 2000 feet

Trả lời xong,tôi giảm cao độ và nhờ co-pilot đổi qua tần số nội bộ để gọi chiếc số hai
- Hai đây một gọi
- Hai nghe, nói đi
- Tôi sẽ bay theo sự hướng dẫn của Spartan, bạn theo tôi nhưng giữ cao độ 3000 bộ, làm vòng chờ lúc tôi đáp, quan sát tình hình bãi đáp,nghe rõ không trả lời?
- Hai nghe năm

Tôi cho tàu bình phi ở 2000 bộ, cơ phi và xạ thủ báo cáo là hai Cobra Mỹ lúc nào cũng theo xa xa…mặc đù họ bay nhanh hơn chúng tôi.
Chúng tôi giữ yên lặng vô tuyến, đúng hướng bay và cao độ ấn định vào khoảng mười phút thì tiếng cuả Spartan lại khàn khàn vang lên chậm rải,rõ ràng:

- Eagle 1 this is Spartan, at one o’clock position, one mile away, do you see an opening in the jungle and the reflecting of a mirror in that opening? - That is your LZ - over.
Nhìn về hướng một giờ, thấy ánh chớp nhấp nháy,tôi bèn trả lời.

- Roger,I have the LZ in sight
Tiến đến gần hơn,tôi thấy một khoảng trống bằng cái sân đá banh và có chiều dài kha khá, cỏ tranh úa vàng và chung quanh là rừng cây xanh không rậm rạp lắm. Ở giữa đám cỏ tranh lấp lánh ánh phản chiếu của tấm kíếng mà biệt kích đang xử dụng để đánh dấu bãi đáp cho tôi.

Nãy giờ các pilots của mấy chiếc Cobra vẫn theo dõi cuộc đàm thoại giữa tôi và chiếc Spartan nhưng họ giữ im lặng. Bây giờ lead Cobra mới lên tiếng gọi
- Eagle 1 this is Playboy 1- over
- Playboy 1 go ahead, tôi trả lời
- Sir, after you lift-off, go straight forward do not turn left or right, we will shoot on both sides of the jungle - over
- Roger that, take off straight forward, thank you Sir. Tôi trả lời

Tôi giảm nhanh cao độ và gọi số hai
- Hai đây một
- Hai nghe nói đi

Tôi bắt đầu decend, bạn giữ 3000 bộ trên bãi đáp
- Hai nghe 5

Tự biết khả năng bay bổng tầm thường của mình, và vì chưa có kinh nghiệm bay cho Biệt kích nên tôi chọn cách approach nào hợp với mình nhất.Tôi mừng thầm là rất may mắn có cái LZ trống trải như hôm nay thì đỡ phải vật lộn với con tàu.Cho nên dù có đáp hay cất cánh theo chiều dài của cái khoảng trống với tốc độ cao, tail wind nhẹ thì cũng không sao...



Tính toán như vậy, tôi bèn đổi hướng một tí để line up tàu với chiều dài của khoảng trống.Tôi vào cận tiến thật nhanh và giảm cao độ thật lẹ, nhắm hướng nhấp nháy của tấm kíếng phản chiếu nhào tới, tôi flair phi cơ tối đa và đáp ngay trên anh chàng chiếu kiếng làm chàng ta phải chạy dạt sang bên và phóng lên đầu tiên khi tàu vừa chạm đất. Tôi thấy thấp thoáng vài bóng mặc quân phục chính quy BV xách AK chạy thật nhanh từ bìa rừng về phía phi cơ, dù đã đươc biết trước về quân phục và trang bị của biệt kích nhưng chúng tôi cũng không khỏi giật mình vì chưa quen với cảnh này, tuy nhiên mấy chàng xạ thủ trực thăng với hai cây đại liên M60 lúc nào cũng hờm sẵn để nhả đạn nên chúng tôi cũng tạm an tâm.Thoắt một cái, tất cả đã lên tàu, không chần chờ một giây, tôi nhấc bổng tàu lên và chúi mũi về phiá trước để lấy tốc độ cất cánh. Khi bụng phi cơ vừa lướt trên ngọn cây thì cũng là lúc hai chiếc Cobra nhào xuống phóng vài rocket nổ ầm ầm và các cây Garling guns tuôn ra mấy ngàn viên đạn một phút nghe như bò rống bắn chụp lên hai bên bìa rừng. Xạ thủ đại liên M60 của tàu chúng tôi cũng bắn chát chúa xuống rừng cây trên đường bay ra. Hoạt cảnh ồn ào và linh động giống như một đoạn phim của Hollywood. Tôi rũa thầm mấy tay Playboy này bắn rocket gần quá coi chừng tàu trúng miễng thì bỏ mẹ cả lũ !

Lấy cao độ thật nhanh và bình phi ở 3000 bộ, Tôi gọi số hai.
- Hai đây một gọi
- Hai nghe
- Hai đang ở đâu?
- Ba giờ của một, 3000 bộ

Nhìn qua hướng ba giờ thấy số hai đang bay về phía tôi. Chúng tôi ráp vào nhau lấy hướng căn cứ biệt kích trực chỉ...
Hai chiếc Cobra từ xa bay vào kè sát với chúng tôi, pilot bên chiếc Cobra lead đưa ngón tay cái lên và tiếng của họ vang lên:
- Eagle 1, this is play boy 1
- Go ahead, playboy 1, tôi trả lời
- Job well done eagle 1, good luck and good bye, Sir
- Same to you, thank you and good bye, Sir
Hai chiếc Cobra tách ra và xa dần chúng tôi.

Trên đường về, trưởng toán biệt kích râu ria lởm chởm trao cho tôi điếu thuốc và châm lửa dùm. Rít một hơi dài, tôi cảm nhận điếu thuốc Quân tiếp vụ của lính sao quá đậm đà, cái đậm đà của tình chiến hữu, của sự trở về bình an và của khí trời thanh cao, mát mẻ…

Nhờ co-pilot lái hộ tàu, tôi ngồi hút thuốc và nghỉ về phi vụ của chúng tôi sao lại quá dễ dàng, chẳng có một tí hiểm nguy nào rình rập…
Vậy mà các bạn tôi, những phi công tài hoa, những phi hành đoàn kinh nghiệm lại bị những viên đạn thù đốn ngã, tan xác cùng con tàu định mệnh, đi không ai tìm xác rơi hoặc cháy thành tro bụi hoặc bị thương tật, tàn phế suốt đời !
Phải chăng là do định mệnh, hoặc nhờ may mắn mà tôi chưa bị lọt vào ổ phục kích hay nhận lãnh những viên đạn thù như chúng bạn?
Đời bay bổng còn dài… ngày mai nào ai biết ra sao, que sera..sera ?



Trên đường về phi trường Quảng Lợi, lòng tôi hân hoan vì phi vụ hoàn tất mỹ mãn mà không có một thiệt hại nào cho toán biệt kích cũng như mấy phi hành đoàn tham dự.

Ngồi gác chân, lơ đễnh nhìn những đám mây trắng nõn nà lơ lửng trên bầu trời trong xanh.Mơ màng thưởng thức hương vị đậm đà của điếu thuốc quân tiêp vụ mà anh chàng thiếu uý biệt kích vừa trao cho.Bỗng anh ta chồm lên phòng lái vổ vai tôi rồi chỉ xuống khu rừng xanh ngút ngàn đang lùi dần phía dưới.
Giữa khu đất trống,một đàn heo rừng gần chục con đang mải mê đào bới mặc cho tiếng phành phạch của trực thăng trên cao.

Hắn ghé sát vào tai tôi nói lớn:
-“Xuống làm một con không ông thầy?”
Tuy đã về gần căn cứ.Tôi nhìn xuống rừng lưỡng lự. Đoán biết tâm trạng của tôi, viên thiếu úy thuyết phục:
-“khu này của mình, yên lắm đừng lo, xuống làm môt con thôi ông ”.
-“hai đây một” tôi gọi số hai

-“hai nghe nói đi”


-“hai ở trên cover, tôi xuống bắn một con heo cho biệt kích”


-“nghe năm, cẩn thận nghe một”


-“ nhận năm, cám ơn”


Tôi nhìn trung úy co-pilot, như hiểu ý, với ánh mắt đồng lõa, anh trao cần lái, lập tức tôi rời khỏi hợp đoàn, cúp ga nhào xuống. Đàn heo đang ăn nghe tiếng trực thăng trên đầu hốt hoảng chạy tứ tán nhưng lại nhanh chóng vào hàng một theo con đầu đàn. Con heo to dẫn theo bầy heo nhỏ chạy zíc zắc qua lại trông rất tếu nhưng có kỷ luật.
Bay lướt qua, tôi bất chợt chửi thề:


-“ Mẹ, heo mà cũng bày đặt chạy theo đội hình chiến thuật”.


Tôi cho tàu sà xuống trên ngọn cây và bay song song với bầy heo chưa kịp thoát thân, để đưa anh xạ thủ vào tầm bắn. Hai tiếng “tạch tạch”phát ra từ cây M60 khiến con heo đầu đàn đang cúi đầu nhắm rừng cây chạy trối chết, lộn đi mấy vòng nằm lăn quay trên mặt đất, bụi bay mù mịt. Đàn heo còn lại mất chỉ huy, chạy lung tung rồi lủi vào rừng mất dạng.Trong lúc cả tàu đang reo hò hoan hô anh xạ thủ tài ba, tôi quay ngược tàu lại và đáp ngay xuống bên xác con heo nằm bất động khi bụi mù chưa tan. Bốn tay biệt kích như đã quen nghề, nhanh như cắt phóng xuống, mỗi người nắm một chân con heo liệng nó lên sàn. Con tàu vội vã cất cánh bay ra khỏi vùng… Chú heo rừng nằm chình ình ở giữa, mọi người chung quanh nhìn ngắm trầm trồ. Nó có cặp nanh dài, bộ lông thưa và cứng màu đen. Bao tử bị bể vì trúng đạn nên mùi cỏ non chưa kịp tiêu nồng nặc trong tàu…


-“Một đây hai gọi”
-“Một nghe” tôi trả lời
-“Heo bự không?”
-“Vào khoảng 50 ký, có hai nanh khá to, để xin mấy chả một cái làm bùa”
-“ Ông nhớ xin cho tôi với nghe”
-“OK”



Buổi chiều, ông thiếu úy mang tặng chúng tôi hai cái nanh heo rừng.Thịt thì để lại câu lạc bộ nấu cho BK. Xong nhiệm vụ ngày hôm đó, hai phi hành đoàn được trả về đáp tạm ở Tân Sơn Nhất để ngày mai trở lại làm việc cho họ. Đáp TSN, phi hành đoàn chúng tôi rủ nhau ra một quán nước gần Quân vụ thị trấn để giải khát trước khi chia tay ai về nhà nấy. Hai anh cơ phi xạ thủ vào trong quán trước để kiếm bàn ngồi. Tôi và anh trung úy co-pilot lui cui khóa xe rồi vào sau. Khi hai đứa tôi vào hẳn trong quán, tiến tới bàn của mình, bỏ túi hành trang và nón bay xuống bên ghế. Ngồi nhìn quanh thì không thấy khách nào khác ngoài tám anh lính Nhảy Dù đang ngồi ngả nghiêng mặt mày đỏ ké, giọng nói lè nhè. Trên bàn rải rác vài dĩa đồ nhậu và đầy vỏ chai chứng tỏ đám ND này đã nhậu ở đây khá lâu và đang say mèm nên chẳng có khách nào dám lai vãng. Tôi hơi chột dạ vì đã lỡ vào quán, sợ có chuyện không may sẽ xảy ra nhưng cũng tự an ủi là sát bên Quân vụ thị trấn, Quân Cảnh đông như kiến chắc cũng không đến nỗi nào.

Nhưng tôi đã lầm to. Bà chủ quán đi ra nhìn chúng tôi ái ngại, để bốn cái ly và mấy chai coca cola lạnh trên bàn rồi quay vào. Từ bàn bên kia một anh lính ND xô ghế đứng dậy ngả nghiêng cầm chai bia đi về phía bàn chúng tôi. Đứng kế bên tôi, hắn thản nhiên rút trái lựu đạn mini chỉ to hơn trái chanh một tí nhưng sức công phá thì kinh khủng, làm bộ rút chốt ra để dọa rồi bỏ nguyên trái lựu đạn vào ly tôi. Hắn cầm chai bia đổ gần đầy ly, xong dõng dạc ra lịnh cho tôi.


-“ĐM uống trăm phần trăm nghen”
Hai anh trung sĩ xạ thủ và cơ phi đặt tay lên báng súng bên hông nhìn tôi căng thẳng. Tôi lắc nhẹ đầu với hai anh rồi sửa soạn uống. Ông trung úy nói với tên lính ND là ông th/ tá không uống bia.
Tên này dằn mạnh chai bia xuống bàn nói:
-“ĐM, th/tá uống theo th/tá”


Tôi giận cái tên lính có tánh kiêu binh ngu xuẩn và vô ý thức này. Nhưng để tránh sự đáng tiếc có thể xảy ra, và để dùng kế hoãn binh, tôi nâng ly, tay đè trái lựu đạn cho đừng rớt ra rồi nín thở uống cạn.Trong lúc tôi đang khổ sở cố uống 100 phần trăm cho hắn hài lòng thì bàn bên cạnh, bạn bè hắn cũng đang say đồng loạt hô to -‘Dô…dô…dô...”làm tôi muốn sặc. Sự nhục nhã đang nhen nhúm trong tôi!
Bỗng có tiếng quát từ xa:
-“ĐM, cái gì ồn ào dzậy”


Cả toán lính im bặt. Tên lính đứng bên cạnh tôi bổng trở nên lúng túng, mất cái vẻ hùng hổ lúc ban đầu. Từ sau quán bước ra một ông ND khác vừa đi vừa cài nút quần vừa quát tháo ầm ỉ. Mặt mày đỏ ké bước thấp bước cao tiến về phiá bàn của chúng tôi. Tôi nhận ra cái lon thiếu uý trên cổ áo của ông ND vừa mới từ toilet đi ra nên cũng khá yên tâm. Ông thiếu úy này đã đến trước bàn chúng tôi. Ông nhận ra ở bàn KQ có th/tá, trung uý và hai trung sĩ. Mặc dù đang say, ông cũng đứng nghiêm chào. Chúng tôi tất cả đều đứng dậy chào lại và riêng tôi bắt tay ông thiếu uý ND có tư cách. Bổng ông ta nhìn trái lựu đạn trong ly của tôi, hiểu ra câu chuyện ông nổi giận thộp cổ cái anh lính hỗn xược lắc mạnh khiến tôi phải can ra. Ông xin lỗi, rồi thò tay vào ly móc trái lựu đạn ra, thản nhiên bỏ vào túi mình trước sự ngơ ngác của anh lính kia. Vị thiếu uý bảo anh lính về lại chổ củ rồi bắt đầu giảng morale cho đám lính của mình đang ngồi nín khe bên kia:


- “ĐM, tụi bây có biết KQ và ND là anh em không?
- Không có tàu bay làm sao tụi bây nhảy dù, không lẽ nhảy chuồng cu?
- Lúc tụi bây bị thương hay tử trận, ai chở tụi bây về?
-Tụi bây đi hành quân thay vì lội bộ, ai chở tuị bây đến ai đưa tụi bây đi?
-Tụi bây cần yểm trợ ai bỏ bom, bắn phá giải tỏa áp lực cho tụi bây?
-Tụi bây thiếu đạn,thuốc, nước, gạo ai chở tới cho tụi bây?
- Ai đem thơ cho tụi bây đọc, ai chở tụi bây đi phép về đ… vợ thăm con?
- ĐM, Không Quân làm ơn và hy sinh cho tụi bây mà tụi bây đối xử chó đẻ như vậy hả? Đ má, tao đá thấy mẹ hết bây giờ.
Thằng C. đ. má mày tới xin lỗi ông th/tá mau đi. Anh lính ND sau khi nghe những lời xài xể hửu lý của ông trung đội trưởng của mình thì mới ngộ ra, biết lổi bẽn lẽn đến bên tôi gãi đầu xin lỗi.

– “ Em thành thật xin lỗi th/tá”
Tôi bắt tay anh ta và nói vài lời cho hắn đỡ quê. Đám lính ND bây giờ tiu nghỉu không còn ồn ào như trước nữa. Viên thiếu úy muốn mời chúng tôi ở lại nhậu nhưng tôi từ chối viện cớ bận công vụ sau khi uống nước xong.


Chiều hôm đó, tôi đem cái nanh dài gần bốn inches khoe với bà xã và nói là sẽ cưa làm đôi, bịt vàng để đeo làm bùa né đạn ?!!! Nửa còn lại cho em muốn làm gì thì làm. Bả cười và cất nanh đi . Mấy ngày sau bả đưa tôi nửa cái nanh heo và năn nỉ tôi cưa nó ra làm nhiều lát mỏng để cho bả và mấy cô bạn đeo làm bùa . Mấy tháng sau, chiếc DC 6 bốn động cơ của Air Việt nam bị SA7 VC bắn rớt. Tất cả phi hành đoàn và hành khách tử nạn chỉ trừ một cô ngồi sau đuôi bị thương mà thôi! Không biết cô này có đeo nanh heo của tôi cưa cho không?

Hỏi bà xã bả không nhớ. Riêng tôi, có nanh cất chơi cho vui vì nó lên nước đẹp lắm nhưng tin thì vẫn chưa chắc vì con heo nó có tới hai nanh mà vẫn bị bắn như thường!

Cali

Saturday, August 15, 2009

Những Người Lính Cùng Chiến Tuyến Bảo Vệ Tư Do



Những Người Lính Cùng Chiến Tuyến Bảo Vệ Tư Do


Ðây là toán hầu kỳ danh-dự trong lễ an-táng các hài cốt phi-hành-đoàn của chiếc trực-thăng H-34 thuộc QLVNCH gặp tai nạn vào năm 1965 ở biên-giới Lào-Việt.

Lễ an-táng được thực-hiện tại Nghĩa-trang Quốc-gia Arlington, Tiểu-bang Va. Các hài-cốt gồm có: cố Thiếu-Tá Larry Thorn (USAF), cố Trung-Uý Phan-thế Long (VNAF), cố Thiếu-Úy Nguyễn-bảo-Tùng (VNAF) và cố Trung-Sĩ Bùi văn Lành (VNAF).

Chúng ta có thể nhìn thấy các toán hầu kỳ danh-dự mang trên tay một lá cờ Mỹ và 3 lá cờ của VNCH.

Nguyên Huy


Đó là những người lính Hoa Kỳ và VNCH trên chiến trường VN vào những năm trước năm 1975. Một thời gian họ đã là những người sinh tử có nhau. Với họ, cuộc sống của nhau như đã gắn liền. Một lệnh hành quân phối hợp là cùng nhau chia sẻ hiểm nguy và những hiểm nguy trên chiến trường thì không bao giờ phân biệt cái gì cả. Sống trong tình trạng thường xuyên như vậy, người lính VNCH đã nảy sinh những tình cảm thật thân thiết đến có thể xả thân cứu bạn như những người lính không quân của VNCH đã từng nhiều lần đối với chiến binh Hoa Kỳ trong cuộc chiến VN. Một Lê Quý An và nay lại một Phan Thế Long nữa được chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ ghi nhận.

Hôm nay, 26 tháng 6 tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington, có lễ an táng Phi Hành Đoàn VN và cố Trung Úy Phan Thế Long được an táng trọng thể tại nghĩa trang vinh dự này. Mất tích trong một phi vụ phối hợp Mỹ Việt vào ngày 18 tháng 10 năm 1965, Trung Úy Phan Thế Long thuộc biệt đoàn 83 không đoàn 33 của không lực VNCH nay đã được chính phủ Hoa Kỳ làm lễ an táng tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington sau khi tìm thấy được hài cốt và chuyển sang Hoa Kỳ trong những chương trình tìm kiếm người Mỹ mất tích với CSVN. Được biết tin này chúng tôi đã tìm cách liên lạc với gia đình cố Trung Úy Long cùng những chiến hữu của cố Trung Úy.

Cựu Đại Tá Phước phi đoàn trưởng 219 KLVNCH hiện ở Pasadena cho biết: "Chúng tôi cùng học khóa I Không Quân VN tại Marrakech từ 1952 cùng khóa với Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Long ở trong một đơn vị không quân có nhiệm vụ đi toán biệt kích trên đường mòn Hồ Chí Minh. Trong một chuyến bay đổ toán từ Đà Nẵng đến Kontum khi ngang qua Khâm Đức, máy bay của Long đã mất tích. Phi hành đoàn trong chuyến bay này có ba VN là Long, phi công chính và Trung Úy Nguyễn Bảo Tùng, khóa 16 Đà Lạt và hoa tiêu trung sĩ Bùi Văn Lành. Toán biệt kích vì lý do bí mật quân sự, không được biết là có bao nhiêu Hoa Kỳ nhưng chúng tôi biết rõ là thường thì Toán đi công tác như vậy có ít nhất là một người Mỹ và hai người Thượng.

Mất tích trong khi hành quân đối với quân nhân chúng tôi lúc bấy giờ là chuyện không lạ. Có thể bị địch bắt, có thể hy sinh và cũng có thể đang tìm đường về hay sống mòn mỏi trong các khu rừng rậm ven dãy Trường Sơn. Điều đau khổ không phải cho chúng tôi, những người lính mà là cho gia đình. Những người thân yêu ấy cứ phải sống thấp thỏm trong hy vọng thật mong manh nhưng không ai dám nghĩ đến cái chết vì sợ tuyệt vọng."

- Thưa trong trường hợp nào mà niên trưởng được biết tin cố Trung Úy Long được an táng tại Arlington ?

- Không quân chúng tôi có anh Nguyễn Quí An thường xuyên liên lạc với phía Hoa Kỳ.

- Tin này do phía Chính Phủ Hoa Kỳ nhờ anh An tìm giùm gia đình của Cố Trung Úy Long. Và qua những hội cựu quân nhân Không Quân tôi đã bắt được liên lạc với cháu Bích là cô con gái của anh Long hiện ở tại nam California.

- Về việc một chiến hữu của mình được chính phủ Hoa Kỳ ghi công như vậy, niên trưởng có cảm nghĩ gì không ?

- Cảm nghĩ, ôi chào, thì nhiều nhưng biết nói sao giờ nhỉ. Chúng tôi nói riêng anh em không quân VNCH rất là trân trọng việc làm của chính phủ Hoa Kỳ hiện tại. Đây có thể coi như là một hành động vinh danh QLVNCH trong cuộc chiến đấu bảo vệ tự do ngày nào và cũng là để ghi ơn những người lính VNCH đã.

Tiếp xúc với chúng tôi qua đường dây điện thoại, chị Bích, người con gái yêu của cố Trung Úy Long ngày nào, xúc động cho biết: "Khi được bác Phước cho biết tin này, chúng tôi vừa mừng vừa buồn. Mừng vì đã có tin chính xác về cái chết của người cha thân yêu của chúng tôi. Buồn vì từ nay mất hẳn hy vọng thấy lại được người cha mất tích. Đã qua bao nhiêu năm chúng tôi không thể quên được hình bóng người cha oai hùng trong tấm áo phi công. Mặc dù khi ấy tôi mới chỉ có 8 tuổi chưa có được ý thức gì về chiến tranh nhưng tôi cứ thấy vẻ lo lắng của mẹ mỗi khi ba tôi mặc áo phi công ra khỏi cửa, là tôi cũng cảm thấy có một cái gì nao nao trong dạ. Khi ấy thì tôi không thiết chơi với ai cả. Tôi nhớ nhất là có một buổi mẹ tôi làm bữa ăn ngon mà ba tôi thích và ba bay trên mái nhà báo hiệu là ba đã về, nhưng rồi cứ chờ mãi chờ mãi đến khuya thật khuya Ba mới mở cửa bước vào. Chiếc áo phi công vấy đầy máu. Mẹ tôi hét lên chạy đến ôm lấy ba tôi đỡ vào ghế bành nhưng ba tôi chợt cười lớn. Câu chuyện tôi còn nhớ thật rõ như mới xảy ra ngày hôm qua. Ba nói anh có sao đâu mà em lo lắng quá vậy. Sao áo anh đầy máu. Máu của người bạn Mỹ mà anh vừa cứu họ được khi chiếc máy bay của anh ta bị bắn rớt ... Đáng lẽ nhiệm vụ anh đã xong về kịp với em nhưng nghe cấp cứu ... anh không trở về với em ngay được, con mèo nhỏ của anh chắc lo lắm hả." Rồi thì sau cùng Ba tôi cũng không về nữa. Mẹ tôi âm thầm sống cuộc đời sương phụ và đã mất vào năm 1984 tại Hoa Kỳ,"

- Được tin báo là chính phủ Mỹ tìm được hài cốt của Ba và sẽ an táng tại nghĩa trang Arlington, cô có cảm nghĩ gì không?

- Vinh dự. Thật vinh dự. Chỉ tiếc là Mẹ tôi không còn sống để hưởng cái vinh dự này để bù lấp vào những năm tháng mỏi mòn cô phụ. Chúng tôi được chính phủ Hoa Kỳ mời lên WDC tham dự lễ an táng phi hành đoàn và lễ an táng cha tôi vào ngày 26 này. Khi chúng tôi viết bài này cũng là lúc nhận được tin lưỡng viện Quốc Hội Louisiana công nhận lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ mà cố Trung Úy Phan Thế Long đã hy sinh dưới lá cờ đó, đồng thời cũng nhận được tin Thống Đốc Tiểu bang Texas chấp nhận dự luật về quyền lợi cho người cựu chiến binh VNCH như những cựu chiến binh Hoa Kỳ trong một số phạm vi, chúng tôi bỗng lạc quan tin rằng đã đến lúc cuộc chiến đấu của những người lính chiến đấu trong cuộc chiến VN được trả đúng danh dự cho họ sau bao nhiêu năm bị những nhà đầu cơ chính trị và kẻ thù xuyên tạc.

Công việc còn lại bây giờ là những người lính ấy còn sống sót và trong cuộc sống lưu vong tị nạn này có đích thân bảo vệ được cái danh dự ấy hay không.

NGUYÊN HUY

18 Oct 65, Larry Alan Thorne, Cpt 0-3, Norwalk, Conn; USASF, Shining Brass, FOB#1, Kham Duc,Crashed outside of Da Nang aboard Vietnamese CH-34, MIA long with the Vietnamese Pilot, Co-pilot, and Door Gunner all whom were KIA.
Cpt Thorne became missing after inserting the first MACV-SOG mission from Kham Duc into Laos. (Cpt Thorne was involved in the insertion of the 1st Shining Brass Recon Mission ran by Charles "Slate" Petry, Jim "Halo" Smith, and William "Willie" Card. Cpt Thorne was a passenger when the aircraft crashed)
(See the story by Al Friend, A Walk in the Indian Camp in the Tales from SOG section).
[Thorne is featured on page 35-37, SOG, A Photo History of the Secret Wars by John Plaster]. For more on Larry Thorne, click on Thorne. Also visit Larry Thorne's video clip

CHUYẾN BAY TỬ THẦN VÀO ĐỒI 31 HẠ LÀO


Phạm Hòa và Phi Công Thiếu Tá Nguyễn Qúy An Phi Đoàn 219
Người Anh Hùng của QLVNCH


Chuyện về cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào nhằm cắt đứt đường mòn HCM đã được nhiều người viết ra. Ðầu tiên là nhà văn Phạm Huấn với quyển "Trận Hạ Lào năm 1971", rồi nhà văn nhảy Dù Lê Ðình Châu, đại uý đại đội trưởng đại đội công vụ nằm vòng đai bảo vệ cho Lữ đoàn 3 nhảy Dù trên đồi 31 cũng ra mắt quyển "Ðôi mắt người TùBinh", và anh Nguyễn Văn Long, thiếu uý sĩ quan phụ tá ban 2 Lữ Ðoàn 3 nhảy Dù vẫn thường xuyên viết về Hạ Lào cho Ðặc San Nhảy Dù ỡ Úc Châu. Ở đây, tôi chỉ ghi lại câu chuyện như là một mẩu hồi ức dưới mắt nhìn của một người lính Không Quân.

Tôi là một hoa tiêu phục vụ trong phi đoàn 219, thuộc Không Ðoàn 51, Sư Ðoàn I KQ trú đóng tại Ðà Nẵng. Phi đoàn 219 là hậu thân của biệt đoàn 83 với nhiệm vụ tiến hành cuộc chiến tranh thầm lặng trong bóng tối nhằm gây rối, phá hoại hậu phương của địch. Vì thế tất cả phi cơ của phi đoàn 219 chỉ sơn toàn bệt màu đen và xanh lá cây xẫm bên trên phần bụng trắng và không mang phù hiệu hay cờ gì cả ngoài số serial number mà thôi. Là một phi đoàn chỉ thi hành những phi vụ đặc biệt ngoài lãnh thổ và ngoài những cuộc hành quân bình thường, nhưng trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, nằm trong kế hoạch được mệnh danh là Việt hoá chiến tranh, một cuộc hành quân quan trọng lần đầu tiên hoàn toàn do QLVNCH đảm nhiệm với sự yểm trợ tối thiểu của không lực Hoa Kỳ trong những ngày đầu với những loại trực thăng khổng lồ chuyên chở những xe cơ giới hạng nặng như xe ủi đất, lô cốt tiền chế, đại pháo 105 và 155 ly để QLVNCH dọn bãi thiết lập những căn cứ hoả lực đầu cầu trên đất Lào. Vì thế nên Quân Ðoàn I đã phải trưng dụng tất cả những đơn vị KQ trực thuộc Sư Ðoàn I KQ trong đó có phi đoàn 219. Như vậy phi đoàn chúng tôi, ngoài những phi vụ đặc biệt thường lệ, lại phải đảm nhiệm thêm việc yểm trợ cho Sư Ðoàn Dù, một trong 3 lực lượng nòng cốt trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Mỗi ngày phi đoàn 219 tăng phái một phi đội gồm 2 hoặc 3 chiếc H34 nằm trực chiến tại Khe Sanh, nơi đặt bản doanh Bộ chỉ huy tiền phương Sư Ðoàn Dù. Từ đây chúng tôi xuất phát những phi vụ tiếp tế lương thực, đạn dược cho các căn cứ hoả lực 29, 30 , 31 và các đơn vị hành quân lục soát bên ngoài căn cứ. Những phi vụ này thường là rất "hot", nhưng "hot" nhất vẫn là những phi vụ tải thương cho binh sĩ nhảy Dù khi có đụng độ với quân cộng sản Bắc Việt. Và chuyện này xảy ra như cơm bữa hàng ngày nên chúng tôi coi như pha. Chúng tôi cứ luân phiên nhau mỗi phi đội trực chiến cho Sư Ðoàn Dù 4 ngày rồi trở về Ðà Nẵng tiếp tục những phi vụ thường nhật.

Hôm nay đến phiên trực của chúng tôi. Phi đội gồm có 2 phi cơ do anh Chung tử Bửu lead, tôi copilot và Nguyễn văn Em là mêvô, chiếc thứ hai tôi chỉ nhớ hoa tiêu chánh là anh Yên. Chúng tôi vào phi đoàn nhận lệnh vào lúc 8 giờ sáng rồi chia tay nhau về nhà sửa soạn hành trang, hẹn gặp nhau lúc 10 giờ ngoài phi đạo 219.

Ðúng giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ làm tiền phi, check nhớt, xăng, load những cơ phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề và anh em kỹ thuật 219 rồi cất cánh, trực chỉ Ðông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa thì chúng tôi ra đến Khe Sanh. Vừa đến nơi, không màng ăn trưa vì nóng lòng muốn cứu đồng đội nên chúng tôi quyết định phải vào ngay đồi 31 chứ không thể đợi lâu hơn được. Trong khi anh Bửu vào trình diện với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương SÐ Dù để đặt kế hoạch cho chuyến bay thì tôi và mêvô Em đi check lại máy bay. Xăng vẫn còn đầy bình trước, dư sức bay không cần phải refuel.

Một lát sau từ phòng briefing ra, anh Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ quyết tử này. Chuyến vào chúng ta sẽ chở theo một tiểu đội tác chến điện tử Dù cùng với 18 chiếc máy "sensor" vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để phát giác đặc công địch, chuyến ra sẽ rước phi hành đoàn anh Nguyễn thanh Giang về. 15 phút trước khi lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn dọn đường mở một hành lang dọc theo quốc lộ 9, dập vào những địa điểm được ghi nhận có phòng không địch vì tình hình lúc này rất gây cấn, địch tập trung lên đến cấp tiểu đoàn phòng không gồm đủ loại từ 37 mm, 12ly7 và lần đầu tiên còn nghe có cả SA7 nữa. Về không trợ thì có 2 chiếc Gunship của phi đoàn 233 do trung uý Thục bay trước mở đường.

Trước đó trong lúc briefing, anh Bửu đã được nói chuyện trực tiếp với anh Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng anh Giang đã dùng chiến thuật "lá vàng rơi", từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh vòng rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Võ văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, mêvô Trần hùng Sơn không quên vác theo cả cây M60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay anh Bửu bay Rase Motte sát ngọn cây theo hướng Ðông-Tây đi vào. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9 tôi còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh Dù bắn rất chính xác và hiệu qủa. Gần đến LZ anh Bửu đổi hướng lấy cấp Ðông Nam-Tây Bắc để đáp xuống. Vừa ló ra khỏi rặng cây, tôi đã thấy chiếc Gunship của trung uý Thục bay vòng lại, cùng với tiếng anh la lên trong máy "Bửu coi chừng phòng không ở hướng Tây". Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn vì đạn pháo kích quấy phá của cộng quân bắc Việt. Không nao núng, anh Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống. Khi phi cơ còn cách mặt đất độ 15 thước thì trúng một tràng đạn phòng không, phi cơ phát hoả, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, mêvô Em la lên khẩn cấp trong máy "đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy". Cùng lúc anh Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc wing "Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa" trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống. May mắn là đạn trúng vào bình xăng phụ đã hết xăng, chỉ còn ít hơi đốt, nên phi cơ không bắt cháy như phi cơ đại uý An ở Bù Ðốp hôm nào. Vừa chạm đất, theo phản xạ tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió, xăng, điện rồi nhảy ra khỏi phi cơ. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ thứ nhất của đại đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước. Tôi còn tiếc chiếc xách tay quần áo nên phóng vào trong phi cơ để lấy. Một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy "sensor" vẫn còn nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp vớ lấy cái xách tay rồi phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù "trên đây nè thiếu uý, tụi tôi bắn yểm trợ cho". Tôi lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở như bò rống. Không quân mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu. Tôi nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971.

Vừa ngồi nghỉ mệt, tôi vừa nhìn xuống bãi tải thương nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc địch điều chỉnh tác xạ, một quả đạn đạn súng cối rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy khói đen mù mịt cả một góc trời. Tôi nhìn con tàu xụm xuống, lòng quặn lên. Con tàu thân thương đó đã gần gụi với mình lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.

Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao thông hào lần về đến ban chỉ huy Lữ Ðoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn anh Giang, On, Sơn anh em chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít. Chúng tôi được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn 3. Ðầu tiên là đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 3, thiếu tá Ðức trưởng ban 3, dại uý Trụ phụ tá ban 3, đại uý Nghĩa sĩ quan liên lạc KQ, trung uý Chính sĩ quan Không trợ Dù, thiếu uý Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh thì có trung tá Châu tiểu đoàn trưởng và đại uý Thương trưởng ban 3 thuộc tiểu đoàn 3 pháo binh Dù. Ðại tá Thọ mừng anh em "mới đến" mỗi người một điếu Havatampa và một ly Hennessy để lấy lại tinh thần. Tôi ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy "ông" nhảy Dù vẫn thản nhiên hút sì-gà Cuba và uống rượu Mỹ như máy! Quả các anh ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng chì thật.

Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật nhanh, chúng tôi dùng tạm bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù. Tôi được ngủ chung một hầm với anh Nguyễn quốc Trụ, một sĩ quan trẻ xuất thân khóa 20 trường Võ Bị Ðà Lạt. Anh cũng là anh ruột của trung uý Nguyễn hải Hoàn, một hoa tiêu chánh trong phi đoàn tôi. Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng hơn vì đối với cộng sản bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ 31 với ý định đánh bật căn cứ này ra khỏi sinh lộ của chúng.

Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được vì địch quân luôn di động dàn phòng không của chúng khiến KQVN và HK không phát huy được ưu thế của mình. Mỗi sáng, chỉ có 2 phi tuần F4 đến ném bom vài khu vực khả nghi chung quanh đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B52 rải thảm ì ầm xa xa vọng đến rồi mọi sự lại chìm vào rừng núi trùng điệp. Ngược lại, quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù.

Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, chúng tôi nhận được lệnh và khởi sự di chuyển ra các hầm cứu thương sát bãi đáp chờ đến trưa đích thân phi đoàn với 3 chiếc H34 sẽ vào tải thương binh Dù đồng thời bốc 2 phi hành đoàn ra. Tôi và anh Bửu cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Ðến trưa khi chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận "tiền pháo" dồn dập lên đồi 31. Qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, tôi thây rõ hai chiếc xe tăng T-54 của cộng quân tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc chung quanh nhắm đỉnh đồi chúng tôi mà nhả đạn. Những tia lửa từ nòng súng phụt ra, tôi và anh Bửu thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân "Trời kêu ai nấy dạ!".

Ngòai kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội C trên căn cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy nhắm vì pháo kích của địch, họ phải hạ nòng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào xe tăng địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được 2 chiếc T54. Nhưng để trả giá cho hành động dũng cảm này nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ, trong số này có cả pháo đội trưởng Nguyễn văn Ðương, người đã là niềm hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Chúng tôi vui sướng reo mừng trong hầm bên này. Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau 2 xe tăng khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi chúng tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi tuần 2 chiếc F4 xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình địch, và lại phá hủy thêm 2 xe tăng nữa. Trong tiếng bom đạn tơi bời, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H34 đang vần vũ trên cao như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến khoảng 5 giờ chiều thì địch tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm gì hơn, tôi và anh Bửu tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.

Về phía KQ, tôi, anh Bửu, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và bị dẫn giải ra bắc Việt chung với tất cả tù binh khác. Không thấy anh Giang và Em đâu. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù trên đường đi. Cuối cùng tôi gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các ra đầu hàng. Ðến lần thứ 3 các anh vẫn không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả 2 chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần mêvô Em thì bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn Em gục chết ở bên đường.

Thế là 219 ghi thêm vào quân sử của mình một thiệt hại 2 phi hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại trên đồi. Ngọn đồi quyết tử 31. Những người còn lại của 2 phi hành đoàn đó là Bửu, On, Khánh và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không?

Viết để nhớ đến tất cả những chiến sĩ anh hùng đã thành danh hay vô danh, vẫn còn sống hay đã hy sinh cho quê hương đất nước. Sau 31 năm it ra tên tuổi các anh vẫn còn được nhắc đến một lần.

Tháng 11 năm 2002

Bùi Tá Khánh

HINH ANH NHAY TOAN

THANG GIAY

BAN ME THUOC

WITH MINI GUN

KHE SANH