Giờ đoàn người từng vượt qua biên giới quyết chiến đấu
Quyết chiếm chiến công ngang trời
Giờ thề một lòng vượt trên lưng gió quyết chiến thắng
Đi không ai tìm xác rơi
Lúc đất nước muốn bao người con thân yêu ra đi
Hối tiếc tấm thân làm chi
Giờ thề một lòng vượt trên lưng gió quyết chiến thắng
Nhớ lấy phút giây từ ly
Ta là đàn chim bay trên cao xanh
Khi nhìn qua khói những kinh thành tan
Đôi cánh tung hoành vượt trên mây xanh
Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng
Đây đó hồn nước ơi !
Không quân Việt Nam lướt trên ngàn mây gió
Ù ..u ú ù u ú
Ôi phi công danh tiếng muôn đời
Nhìn xa phi trường Việt Nam
Không quân ra đi cánh bay rợp trời
Ù ..u ú ù u ú
Xa giang sơn ngắm nhìn về khắp nơi
Quyết chiếm chiến công ngang trời
Giờ thề một lòng vượt trên lưng gió quyết chiến thắng
Đi không ai tìm xác rơi
Lúc đất nước muốn bao người con thân yêu ra đi
Hối tiếc tấm thân làm chi
Giờ thề một lòng vượt trên lưng gió quyết chiến thắng
Nhớ lấy phút giây từ ly
Ta là đàn chim bay trên cao xanh
Khi nhìn qua khói những kinh thành tan
Đôi cánh tung hoành vượt trên mây xanh
Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng
Đây đó hồn nước ơi !
Không quân Việt Nam lướt trên ngàn mây gió
Ù ..u ú ù u ú
Ôi phi công danh tiếng muôn đời
Nhìn xa phi trường Việt Nam
Không quân ra đi cánh bay rợp trời
Ù ..u ú ù u ú
Xa giang sơn ngắm nhìn về khắp nơi
Đoàn ta dù bay ngàn phương cũng về
Để rồi ngày ngày sống hòa nhịp đời Cùng ngàn kiếp chim
Đoàn ta càng đi càng xa Quyết khi về đem lại đây
Để rồi ngày ngày sống hòa nhịp đời Cùng ngàn kiếp chim
Đoàn ta càng đi càng xa Quyết khi về đem lại đây
chiến công Dù thân vùi quên lấp chìm
Tâm tình của NT Nguyễn Qúy An trong lần chia tay năm 2006 mong có ngày Hội Ngộ tương lai, 5 năm sau 3 tháng 7 năm 2011 Nha Kỹ Thuật và Phi đoàn 219 gặp nhau lần nữa.
Thư-Mời
Trân trọng Kính mời:Quý Niên trưỡng, qúy Chiến hữu , quý Thân hữu cùng gia đình bớt chút thời giờ đến tham dự Đại Hội Phi Đoàn 219-NKT 2011 tại:
Trân trọng Kính mời:Quý Niên trưỡng, qúy Chiến hữu , quý Thân hữu cùng gia đình bớt chút thời giờ đến tham dự Đại Hội Phi Đoàn 219-NKT 2011 tại:
Emeral Bay Restaurant
5015 West Edinger Ave
Santa Ane , CA 92704
Tel: 714.775.5161
Thời Gian: Chủ Nhật,
Ngày 03 Tháng 07 Năm 2011
Từ 06:00 pm - 11:00 pm
Tel: 714.775.5161
Thời Gian: Chủ Nhật,
Ngày 03 Tháng 07 Năm 2011
Từ 06:00 pm - 11:00 pm
Chương trình gồm có ăn tối, văn nghệ, dạ vũ và nhiều tiết mục đặc sắc không thể bỏ qua.
Ẩm thực: $30.00
Sự hiện diện đông đủ của quý vị cùng gia đình sẽ là một vinh dự lớn lao cho ban tổ chức.
Ðể việc đón tiếp được chu đáo, xin quý vị vui lòng thông báo số người tham dự
qua các số điện thoại sau đây:
219 Đổ Kim Long 714-468-8188 email: KimLongDo@yahoo.com
219 Đặng Quỳnh 714-653-0227 email: DangTranUSA@yahoo.com
NKT Phạm-Hòa 310-245-2284 email: hoavanpham@yahoo.com
NKT Lê Tinh Anh 949-378-2052 email : ATL752002@yahoo.com
Quận Cam, Ngày 15 Tháng 3 Năm 2011
Ban Tồ Chức Trân Trọng Kính Mời
NKT Lê Tinh Anh 949-378-2052 email : ATL752002@yahoo.com
Quận Cam, Ngày 15 Tháng 3 Năm 2011
Ban Tồ Chức Trân Trọng Kính Mời
Các Chiến Hữu NKT thân mến,
Sau buổi họp mặt thân mật trưa chủ nhật 01/05/2011 vừa qua tại nhà Chiến Hữu Võ văn Hương với sự tham dự của các Chiến Hữu Lê Tinh Anh,Phạm Hoà,Lập cùng một CH/NKT từ San Jose.
Ban Tổ Chức Buổi Họp Mặt VÙNG TRỜI BIÊN GIỚI ngày 03/07/2011 tại Little Saigon California rất vui và cảm động nhận được sự hợp tác nhiệt tình của các CH/NKT để tiếp tục tình cảm thắm thiết gắn bó giữa hai Gia Đình NKT và Kingbee 219 sau cuộc Hội Ngộ 219-NKT năm 2006.
Tin tưởng vào thành công tốt đẹp cho Buổi Họp Mặt VTBG với sự hợp tác NKT&Kingbee 219, chúng tôi mong nhận được danh sách phân công các CH/NKT hợp tác tổ chức để chúng ta có thể đưa ra bảng phân công công tác cụ thể vì thời gian cũng cận kề.
Thân ái,
Thay mặt các Niên Trưởng&Anh Em PD219,
Kingbee Đặng Quỳnh
Kingbee Đỗ Kim Long
Nhân dịp đại hội 219-NKT, tôi được biết sẽ có triển lãm nên tôi nẩy ra ý nghĩ làm 1 chiếc H-34 (chiếc mà tôi đã bay 4 năm trời 68-72) được dùng để thả và rước toán Lôi Hổ. Chiếc này tôi đã cố gắng sơn đúng mầu Kingbee để tặng NKT thể hiện sự gắn bó NKT & 219.
Kingbee Hoàn Nguyễn
(Hồi ký nhân dịp sắp họp mặt phi đoàn 219 và Nha Kỹ Thuật)
Từ thành phố Đà Nẵng theo quốc lộ I lên đèo Hải Vân, nhìn về hướng Tây Bắc, chúng ta sẽ thấy một ngọn núi cao nằm trong dãy Trường Sơn. Đỉnh núi cao khoảng 5000 bộ, thường bị mây trắng che phủ, đặc biệt là đỉnh núi có hình tượng giống như yên ngựa nên ngọn núi này được gọi là núi Bạch Mã. Đỉnh núi Bạch Mã trước đây là một căn cứ nghỉ mát rất lý tưởng thời Pháp thuộc. Thời gian và chiến tranh tàn phá đã biến căn cứ nghỉ mát thành một cứ điểm chiến lược tối quan trọng nên ta và địch tranh nhau chiếm giữ cho bằng được. Hai kẻ thù cùng nhau ở một cứ điểm, cách nhau chẳng bao xa, thường xuyên dùng hỏa lực khuấy phá hoặc gọi nhau thách đố dù rằng đã có lệnh ngưng chiến từ lâu. Có một
lần tôi được biệt phái yểm trợ hỏa lực cho đơn vị bạn đang bị địch đột kích gây khá nhiều thương vong. Trên hai đỉnh yên ngựa là hai đơn vị bạn. Một đại đội địa phương quân và một đại đội thuộc chiến đoàn của Nha Kỹ Thuật. Phi đoàn chúng tôi thường xuyên biệt phái cho đơn vị Nha Kỹ Thuật thiện chiến này. Thuở xưa có một tuyến đường giao thương với đỉnh núi nhưng sau này chiến tranh tàn phá và cây rừng bao phủ coi như bất khả dụng từ lâu nên mọi yểm trợ đều bằng trực thăng. Là một cứ điểm quan trọng nên Việt Cộng quyết tâm lấn chiếm dần dần, chúng dùng hỏa lực phòng không bao vây đỉnh núi suốt gần một tháng, không phi vụ nào thực hiện tiếp tế được vì hỏa lực địch quá mạnh. Lương thực khô cạn, binh lính suy nhược mất hết cả tinh thần chiến đấu, chờ giải pháp cứu nguy cuối cùng. Biệt đội 253 chúng tôi đang nằm ở căn cứ Phú Bài, sáng sớm tôi được lệnh Đại Tá Không đoàn trưởng đem biệt đội về đáp ở núi Đá Bạc cạnh quốc lộ I nằm về hướng đông của đỉnh Bạch Mã. Chúng tôi được tăng cường thêm 5 chiếc slick và 2 chiếc gunship từ Đà Nẵng bay ra. Tôi sẽ hướng dẫn 7 chiếc slick và 4 chiến gunship trang bị đầy đủ bom đạn và lương khô tiếp tế khẩn cấp. Cả bộ chỉ huy tiền phương do Trung tướng Lâm Quang Thi và bộ chỉ huy sư đoàn I Không quân đều tập trung tại núi Đá Bạc chờ ban lệnh xuất phát. Trên bầu trời một chiêc L-19 đang bay cao dùng máy phóng thanh kêu gọi VC tôn trọng lệnh ngừng bắn để chúng tôi bay vào tiếp tế lương thực tuyệt đối không dùng hỏa lực. Nếu không chấp hành lệnh ngừng bắn, chúng tôi sẽ cho oanh tạc cơ dội nát quanh đỉnh núi. Sau một thời gian dứt lời phóng thanh là nhiều phi tuần gồm cả F5 và A37 từ phi trường Đà Nẵng bay ra thị uy gầm thét cả bầu trời.
Có lẽ vì khó tin được bọn Việt Cộng nên bộ chỉ huy hành quân lại bắt chỉ riêng chiếc của tôi chở đầy 10 bao gạo 50kg bay vào gọi là “thử lửa” đầu tiên cùng 2 chiếc gunship hộ tống. Tôi bay trườn lên đỉnh núi, lệnh phải thi hành mà lòng ngổn ngang trăm mối: Liệu địch có tha cho mình không? Bị bắn rớt giữa rừng thế này có ai vào cứu mình được không? Chẳng lẽ mình phải làm vật tế thần cho bọn khát máu vô thần sao?
Chợt nhớ lại cũng tuyến bay quanh khu rừng này cách đây không lâu, tôi đã câu dây và làm rớt lại xác của một anh cơ phi của phi đoàn giữa rừng hoang, không tài nào tìm lấy lại được. Anh phải chết hai lần dù rằng hoàn toàn không phải lỗi ở cá nhân tôi, nhưng chuyện này đã dày vò và làm tôi ân hận rất nhiều. Chuyện là hôm ấy tôi và anh Trung úy Cát nhận phi lệnh thả hai toán lôi hổ phía tây bắc dưới chân núi Bạch Mã. Tôi thả toán đầu tiên và bay yểm trợ cho chiếc của Cát thả toán thứ nhì. Chẳng may phi cơ Cát bị tai nạn và anh cơ phi bị tử thương. Tôi phải bay vòng hướng dẫn phi hành đoàn của Cát (còn lại ba người là Cát, Thiếu úy Thiện và xạ thủ Khôi) di chuyển đến khoảng trống để tôi đáp bốc về phi cơ hoàn toàn hư hỏng và xác anh cơ phi (lâu quá tôi không còn nhớ tên) không thẻ chuyển đến bãi trống được, cần phải thả dây câu vì cây rừng quá cao. Tôi liên lạc nhờ toán lôi hổ bọc xác và tôi chở phi hành đoàn Cát bay về lấy dây và đổ xăng vì bay lâu đã hết xăng. Tôi báo lại phòng hành quân chiến cuộc và ông Thiếu tá Hiền phi đoàn phó gọi đáp chở ông bay cùng. Chúng tôi vào vùng trở lại, thả dây câu bọc xác bay về.
Không hiểu các anh cột bó thế nào mà chúng tôi bay về giữa đường lại thấy bọc xác rơi giữa rừng. Chúng tôi bay vòng tìm kiếm rất lâu nhưng không thấy và biết rằng có thấy cũng khó mà vào lấy được vì rừng già phủ kín lại thuộc vùng mất an ninh. Chúng tôi quần mãi gần hết xăng đành phải bay về với tâm trạng buồn thương khó tả. Và chuyện này phi đoàn chúng tôi đã phải xin lỗi và an ủi thân
nhân của anh cơ phi mình rất nhiều sau đó.
Giờ đây lại phải bay trên vùng rừng sâu phủ kín xác anh, không biết linh hồn anh có oán hận gì chăng? Xin linh thiêng hãy phù hộ cho tôi lúc vô cùng nguy hiểm này. Tôi bay lên gần đến đỉnh bỗng nghe một loạt AK và tiếng lốp bốp vào thân phi cơ khá nhiều, hệ thống âm thanh bị gián đoạn, tôi cố bay trườn
lên đỉnh đạp vội 10 bao gạo quay đầu bay về vì phía trước đạn lửa bắn lên đầy trời và ở lại cũng khó sống. Nhìn lại phía sau phi cơ thì các anh “phe ta” lên lúc nào gần đầy phi cơ. Về đáp lại phi hành đoàn như chết đi vừa sống lại, kiểm tàu đếm tất cả 14 lỗ đạn, trục chong chóng đuôi bị bắn toát gần đứt lìa, nếu còn bay thêm có lẽ sẽ rơi như chuồn chuồn gãy cánh. Tôi về đáp xong, vị tư lệnh tiền phương kêu gọi anh em trên đỉnh núi vào hầm ẩn núp và nhiều phi tuần phản lực ào ạt oanh tạc nát vùng quanh đỉnh núi. Dứt phi tuần oanh tạc, bộ chỉ huy lại cho lệnh Đại úy Thọ hướng dẫn bay lên đỉnh núi tiếp nhưng hỏa lực địch quá mạnh và phi cơ Đại úy Thọ bị trở ngại nên đều hủy bỏ phi vụ. Lệnh cuối cùng là tất cả các binh sĩ hãy tự tìm đường giải thoát và cố tránh bom đạn đánh phủ đầu sau cùng. Chúng tôi đứng nhìn mà ngậm ngùi thương xót cho biết bao nhiêu chiến hữu phải cố mưu sinh kể cả bom đạn của
chính phe mình. Tôi có thăm dò sau này thì được biết riêng đơn vị NKT tìm về Đà Nẵng được hơn phân nửa. Căn cứ trưởng lúc đầu là Thiếu tá Nguyễn Hải Triều và say này đến phi vụ cuối cùng đã đổi chỉ huy trưởng hình như là Thiếu tá Minh, tôi không được biết nên lúc bay tôi cứ gọi Thiếu tá Triều mãi. Kính xin anh em Nha Kỹ Thuật còn ai biết rõ chiến sự Bach Mã này xin ngỏ lời ôn lại kỷ niệm đau thương này. Hiện ở Dallas có Trung úy Ngợi là một chiến hữu trước đây tôi thường gặp ở Bạch Mã, sức khỏe anh dạo này rất yếu vì đau thận. Riêng Thiếu úy Thiện đã qua đời vì bạo bệnh tại tiểu bang Oklahoma cách đây vài năm mà tôi đã được dịp hân hạnh phủ cờ cho chiến hữu.
KB. Phan Văn Phúc.
Xin kính chuyển nhân ngày Hội Ngộ PD219-NKT
Trích Đoạn " Bạch Mả" trong Một Quảng Đời Tôi
100% đó chị Thu ơi, em mừng cho chị và 2 Bác cả tuần nay ăn ngủ không yên.
Trích Đoạn " Bạch Mả" trong Một Quảng Đời Tôi
100% đó chị Thu ơi, em mừng cho chị và 2 Bác cả tuần nay ăn ngủ không yên.
Sau nầy nghe Huy kể lại, khi Ban Chỉ Huy dã chiến và các Toán của Đoàn 72 trên vùng núi Bạch Mã rút về núi Đá Bạc, thì bàn giao lại cho Toán 723 của Huy ở lại trấn thủ trong một ngôi nhà lầu đổ nát mà ngày xưa nhà Nguyễn đã xây trên đỉnh núi chính.Vùng Bạch Mã nầy vào thời nhà Nguyễn đã xây nhiều tòa nhà trên các đỉnh núi để làm nơi nghỉ mát cho Vua - Quan.Với độ cao 1.448m của vùng núi Bạch Mã nên không khí ở đây rất mát mẻ. Đôi lúc đỉnh núi mây trắng tụ lại phủ mù cả vùng trời như cảnh thần tiên huyền ảo trong các truyện liêu trai phim ảnh. Quanh đỉnh núi có vài cụm hoa lan, hoa huệ, mà ngày xưa thời Nguyễn đã trồng nay nở rộ làm đẹp thêm cảnh núi rừng.Từ độ cao của Bạch Mã có thể nhìn bao vùng cả khu đồng bằng từ Lăng Cô ra đến Phiá Nam Phú Bài - Huế. Vì vậy VC lợi dụng trong tình huống QLVNCH đang bị Mỹ cắt bớt viện trợ, nên những phi vụ đánh bom và pháo binh bị hạn chế rất nhiều, để đánh chiếm điểm chiến lược nầy.
Tại tiền đồn Bạch Mã Toán Huy gồm có 12 người, Trưởng Toán là Huy và Toán Phó là T/Uý Tùng cùng 10 Trung Sĩ toán viên ngày đêm chống trả những tên VC cố bò lên chiếm đỉnh đồi. Cảnh thần tiên thơ mộng không còn nửa mà chỉ có đạn bom đêm ngày nổ vang trên đồi tung bụi bay mù mịt, pha trộn trong mây gió làm bẩn màu trắng của trời mây. Nhìn về hướng Nam cách xa ngọn đồi của Huy chừng 200m thì có một Đại Đội ĐPQ của Tiểu Khu Thừa Thiên trấn đóng từ lúc các Đoàn Công Tác lên đây lập tiền đồn chiến lược.
Trong thời gian nầy V.C. lợi dụng lúc sương mù tan loãng trên
đỉnh đồi, thường bắn sẽ anh em ĐPQ và Toán 723. Nhưng mỗi lần chúng bắn sẽ vào Toán 723 thì bị anh em bắn M72 trả lại khiến chúng lo sợ. Còn VC bắn sẽ lính ĐPQ thì chúng chẳng hề bị bắn trả lại, nên chúng thường hay bắn vào lính ĐPQ và đã làm bị thương chết vài người mà trong đó có một Thiếu Úy Đại Đội Phó. Trước tình hình căng thẳng sự vi phạm Hiệp Định Ba Lê qúa trắng trợn của VC trên vùng Bạch Mã, nên Huy cùng anh em Toán sẵn có máu văn nghệ trong người liền lấy máy phát thanh, microphone mà trước đây nhóm Chiến Tranh Chính Trị lên công tác đã bỏ lại lúc rút về Huế, để làm một đêm văn nghệ dã chiến bỏ túi với chủ đề “ ĐÊM BẠCH MÃ ” không ngoài mục đích yêu cầu VC hãy tôn trọng hiệp định Ba Lê đừng bắn sẽ nữa, nếu bắn thì Toán 723 phải tự vệ và sẽ bắn lại. Qua đêm hôm sau VC bên kia núi cũng bắt loa hò hát và đọc những lời tuyên truyền xuyên tạc, nhưng vì dưới chiều gío thổi nên chẳng nghe rỏ được gì.
“ Đừng nghe những gì VC nói, hãy nhìn những gì VC làm ’’ Sự cố gắng của Toán 723 trong ‘ĐÊM BẠCH MÃ’ chẳng đem lại kết qủa gì, vì vài ngày sau lợi dụng mưa gío dầm dề của mùa đông Miền Trung với mây mù che phủ tầm nhìn hạn chế trong 10 mét cả vùng Bạch Mã, VC đã tấn công bằng chiến thuật tiền pháo hậu xung vào đồi của Toán 723 và Đại Đội ĐPQ. Đã từng chiến đấu đơn đôc trong rừng sâu núi thẳm của vùng Tam Biên, nên Toán 723 chẳng hề nao núng trước chiến thuật trận địa chiến, sẵn sàng đợi VC bò lên đỉnh đồi để bắn hạ. Nhưng chúng chỉ pháo phủ đầu vào đồi của Toán 723 để nghi binh rồi nhào lên tấn công đồi của ĐPQ.
Bất chợt nghe tiếng Đại Úy Bạch Đại Đội Trưởng ĐPQ kêu vang trong máy truyền tin vội vã:
Hồng Hà, Hồng Hà đây Bắc Bình anh nghe rõ trả lời .
Huy vội vàng cầm ống liên hợp áp sát vào tai:
Hồng Hà nghe Bắc Bình rõ 5/5.
Tiếng Đại Úy Bạch nói lớn trong ống nghe:
Tụi Vẹm nó bám sát xung quanh hàng rào và tôi nghe rõ tiếng nói của chúng. Nhờ anh bắn đại liên yểm trợ vào hướng đi lên đồi của chúng tôi để VC không chạy lên được đồn.
Huy trấn an:
Tôi sẽ yểm trợ Bắc Bình. Hãy an tâm.
Vì mây mù qúa dày đặc không thể thấy được đồn của ĐPQ nên Huy đã cho Trung Sĩ Phong Đen bắn đại liên M60 yểm trợ đồn ĐPQ theo phương giác Huy hướng dẫn .
Chừng 10 phút sau, tiếng Đại Úy Bạch của ĐPQ lại vang lên trong máy mừng rỡ:
Cám ơn anh Huy đã bắn yểm trợ tốt, và xin anh tạm ngừng bắn.
Sau khi ngừng bắn đại liên M60 yểm trợ cho ĐPQ và chờ đợi lệnh mới của Ban Chỉ Huy Đoàn 72. Ngồi trong lô cốt giao thông hào nghe tiếng đạn nổ ầm ầm của Pháo Binh Tiểu Khu Thừa Thiên yểm trợ, và của cả pháo VC làm rung chuyển ngọn đồi như sẽ sắp đổ sụp tan tành. Bổng Huy chợt nghe anh em trong Toán nói vọng vào:
Có tiếng lính ĐPQ xin đi vào đồi của mình anh Huy ơi.
Vội vàng chạy ra khỏi lô cốt để nhìn xuống lối nhỏ đi lên đồi, nhưng sương mù đục ngầu chẳng thấy được gì cả. Huy chỉ nghe tiếng dưới gần chân đồi dồn dập la lớn:
Địa Phương Quân đây, cho chúng tôi lên đồi, xin đừng bắn.
Nữa tin nữa ngờ, không biết lính ĐPQ hay VC trá hình. Sau mấy giây đắn đo suy nghĩ, Huy vội thét lớn:
Các anh hãy đưa hai tay với súng ống lên đầu rồi đi lên từ từ từng người một. Nếu ai không làm đúng chúng tôi sẽ bắn.
Dạ ! Dạ nghe.
Sau khi cho lính ĐPQ đi hết lên đồi, Huy kiểm tra thấy có khoảng chừng 60 người kể cả những người bị thương. Nguời có súng đạn nguời thì tay không, với vẻ mặt thất thần sợ hãi đang nhỏ to chuyện trò hỏi han. Anh em ĐPQ cho biết sau khi được Toán 723 bắn đại liên yểm trợ xong thì thấy Đại Úy Bạch mở hàng rào ra khỏi đồn rồi chạy về hướng đồi của Toán 723. Nhưng vì mây mù phủ che tầm nhìn, lính ĐPQ tưởng Đại Úy Bạch chạy qua đây nên đã vội vàng chạy theo để xin đi lên đồi của Toán. Có ai ngờ đâu Đại Úy Bạch một mình chạy về Tiểu Đoàn ĐPQ đóng ở vùng núi gần dưới đồng bằng Phú Lộc – Cầu Hai, Nước Ngọt.
Đã từng chiến đấu đơn độc trong rừng sâu quen rồi, và cả tuần qua cùng anh em Toán 723 liều mình để giữ vững ngọn đồi. Nay có thêm một số lính ĐPQ chạy đến gần cả trăm người, nên Huy và anh em Toán 723 càng tăng thêm sự tự tin quyết chiến sống chết cùng Bạch Mã. Nhưng ! nhìn thấy sự hổn loạn sợ hãi của lính ĐPQ, Huy liền bảo anh em Toán 723 mở máy loa phóng thanh cùng hát to bài Quốc Ca “...nầy công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi, đồng lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống …” để kích động tinh thần anh em ĐPQ.
Dưới trời mưa lất phất, mây mù phủ kín đồi, tiếng nổ của đạn pháo ầm vang, hòa cùng bài Quốc Ca VN với tiếng hát nhịp nhàng như một bản hòa tấu hùng mạnh vang dội khắp đồi, làm sôi sục dòng máu ấm trong lòng thúc dục Huy bước ra khỏi lô cốt, tay cầm đàn miệng hát bài Quốc Ca, và đi theo dọc hệ thống giao thông hào dưới trời mưa phùn lành lạnh xuyên qua các lô cốt nầy lô cốt khác, để kích động tinh thần của lính ĐPQ. Thật không ngờ ! có lẻ lời của bài Quốc Ca đã thúc dục được ý chí hy sinh của những người lính trên đỉnh đồi Bạch Mã này, hãy cùng đứng dậy chiến đấu trước cảnh nguy nan. Và Huy rất vui mừng khi thấy anh em ĐPQ bày tỏ một lòng sống chết với Toán 723 để cố giữ vững đồi Bạch Mã.
Sau khi cùng chiến đấu dưới sự điều động của Huy được 1 ngày thì lương thực khô dự trữ đã cạn hết vì đã chia sẻ khẩu phần cùng lính ĐPQ. Huy phải gọi về đơn vị để xin thả dù tiếp tế lương thực. Nhưng vì thời tiết qúa xấu, mưa gío cả tuần nay chưa ngừng lại và thiếu phương tiện máy bay để thả hàng tiếp tế, nên Quân Đoàn 1 đã cho lệnh Huy rút khỏi Bạch Mã. Khi nghe lệnh bỏ đồi Bạch Mã lòng Huy cảm thấy buồn vui lẩn lộn, một khi phải bỏ đỉnh núi mà đã ghi nhiều hình ảnh quen thân trong thời gian qua trấn đóng, và vững tin ngọn đồi sẽ đứng vững trước địch quân. Còn mừng vì sắp gặp lại Cha Mẹ cùng Thu tại căn nhà nhỏ đang thuê tại Sơn Chà.
Trở về từ Bạch Mã nghỉ ngơi được 2 tuần trong căn nhà nhỏ thuê tại Sơn Chà Đà Nẳng, những nhớ thương mừng vui chưa thỏa thuê thì Toán 723 của Huy lại nhận lệnh ra Đá Bạc lại để thay thế công tác cho một toán khác. Đúng là Toán bị “đì ” như các anh em trong Toán Huy từng nói, và lắm lúc bực tức, các anh em đã văng tục chưởi thề ai đó lung tung, làm Thu càng thương cái số hẩm hiu của Huy và mến các anh em trong Toán 723 nhiều hơn. Cũng vì thế nên Toán thường bị nhảy vào các vùng “ nóng ” và đã nhiều lần chạm địch, do đó được thưởng rất nhiều huy chương đồng, bạc, chiến thương, tưởng lục v.v. May thay, được Trời Cao che chở nên Toán 723 chưa có một ai chết trận cả. (1)
CHÀO MỪNG ĐẠI HỘI PD219 & NKT
03 JULY 2011
Ngày Ba tháng Bẩy ai ơi !
Là ngày Đại Hội khắp nơi tìm về
Dù ai bận rộn trăm bề
Nhớ ngày Đại Hội cùng về bên nhau ...
Phi vụ đầu tiên, Phi trường Cù Hanh Pleiku...
Ai đã từng qua Dakto, Daksan, Ben Hét,Ngã ba Biên giới vùng Tây Nguyên,
Thấy xác quân thù vùi thân nơi đây, vùi thân nơi đây...
Chiến thắng Tam Biên Kiêu Hùng... Anh Hùng Trấn Tam Biên
Lời bài hát của cục Chính Huấn năm 1972
Ta cũng đã một thời Tam Biên oai trấn
Lạnh tím người ba biên giới mưa bay...
Thơ Trương Minh Dũng
Trường Sơn Lê xuân Nhị
Đối với nhiều người Việt Nam trước năm 1975, Ban Mê Thuột hay Pleiku là hai thành phố nhỏ. Mà nhỏ thật đấy. Năm 1975, dân số Ban Mê Thuột khoảng trăm ngàn người. Pleiku hình như nhiều hơn một chút.
Viết về Pleiku, nhưng tại sao lại có Ban Mê Thuột ... dính vào trong này, chắc sẽ có người hỏi. Xin thưa, viết về Pleiku nhưng lại nhét... Ban Mê Thuột vào là bởi, kẻ hèn này, tức người viết bài này sinh ra và lớn lên ở Ban Mê Thuột, một thành phố nằm ở phía Nam của Pleiku khoảng 250 cây số đường chim bay. Vì tôi viết bài này cho nên xin phép cho tôi được nhét chút ... Ban Mê Thuột vào để cái tâm hồn già này được dịp phêu lưu trong khoảnh khắc dưới ánh "Nắng Vàng Cố Hương" ngày cũ. Xa cố hương lâu quá rồi cho nên tôi cũng đâm ra hơi lẩm cẩm, xin quý vị niệm tình miễn chấp...
Cách đây chừng vài tháng, người đàn anh khả kính của tôi là "Anh Hùng trấn Tam Biên" Trung Tá Võ Ý, phi đoàn trưởng phi đoàn 118 đóng tại Pleiku đã .... "làm phiền" tôi khá nhiều. Mới đầu, ngài gọi điện thoại, bóng gió xa gần, anh em Pleiku sắp sửa ra tập san, chú út (anh em gọi tôi như thế ở phi đoàn 114) viết cho anh em một bài. Ngài lại còn khéo léo khen là tôi viết văn hay, người ta đọc cảm động làm tôi khoái tỉ quá chừng. Sau đó, sợ tôi quên, lâu lâu ngài lại gọi, lại khen (tôi lại càng khoái tỉ), lại nhắc nhở cái bổn phận thiêng liêng của tôi đối với cái tập san của thành phố Pleiku.
Thấy ngài có tình với cái thành phố khỉ ho cò gáy này, dù đó chẳng phải là nơi ngài sinh ra, chẳng phải là nơi ngài lớn lên, cũng chằng phải là quê vợ của ngài, nhưng lại là nơi ngài đã "tam biên oai trấn" gần chục năm trời, tôi phải cảm động. Thôi thì tôi đành viết. Nhưng cái tật của tôi là, tôi không viết thì thôi nhưng nếu viết thì phải viết thật, không thể dối lòng mình được. Quý vị độc giả có buồn thì xin tha lỗi cho tôi. Tính tôi xưa nay là như thế...
Thưa quý vị, Pleiku đối với tôi là một thành phố... buồn và đáng chán vô cùng.
Xin quý vị hãy khoan, đừng nhăn mặt chửi thề hay chửi tôi, cho phép tôi được cắt nghĩa....
Trước hết, theo sự nhận xét của tôi, Pleiku là một thị trấn nhỏ cô quạnh đìu hiu miền rừng núi, chẳng có gì đặc biệt hoặc đáng nói ngoài những đồn điền cà phê và cao su do tư bản Tây xây dựng ngày xưa, nhưng được phát triễn và lớn mạnh là nhờ bởi chiến tranh. Nếu Pleiku không có một địa thế chiến lược quan trọng, nếu không có cuộc chiến tranh xâm lược của Việt Cộng thì Pleiku mãi mãi chỉ là một thành phố nhỏ, buồn và hiền lành với một số dân cư thưa thớt, người Thượng nhiều hơn người Kinh, và đa số cư nhân là những chủ đồn điền cao su, cà phê và nhưng dân phu sống bằng nghề này. Nhưng khi chiến tranh bùng nổ lớn, Pleiku đã thay đồi. Vì địa thế chiến lược, Pleiku đã trở thành một thành phố chiến lược quan trọng. Quan trọng đến nỗi, chính phủ đã bộ đặt bộ tư lệnh của quân đoàn II tại đây với 2 sư đoàn bộ binh, Không Quân Hoa Kỳ cho xây một đài kiểm báo, thêm vào đó là một sư đoàn Không Quân với một phi đoàn khu trục, một phi đoàn quan sát, mấy phi đoàn trực thăng. Đó là chưa nói đến những binh chủng khác. Cũng có thể nói, vì những lý do đó, Pleiku đã trở thành một thành phố lính không biết vào lúc nào. Nếu có ai đi ra ngoài đường, bất kể ngày đêm, xin đếm giùm cho tôi có bao nhiêu chiếc xe dân sự hay chỉ toàn thấy xe nhà binh và xe cảnh sát.
Riêng cá nhân tôi, kỷ niệm về thành phố Pleiku là những kỷ niệm khó quên, vui thì ít nhưng... nhớ nhà và chạy pháo kích thì nhiều...
Năm 1972, tôi tốt nghiệp khoá 39 hoa tiêu, về phi đoàn 114 Nha Trang. Lúc ấy chiến trường sôi động mạnh, đánh đấm tùm lum, nhất là ở vùng Tam Biên. Sau vài tuần lễ bay huấn luyện thêm về hành quân, tập bắn rocket, tôi khăn gói đi biệt phái. Đi đâu, xin thưa, chỗ nào hung hãn nhất, đánh nhau nhiều nhất thì xin dành cho tân thiếu uý mới ra trường và chẳng biết mẹ gì.
"Đi biệt phái Pleiku bay bổng một thời gian cho biết chút mùi chiến trận với anh em." ông đại uý Dương vừa ghi tên tôi lên bảng phi lệnh vừa bảo như thế.
Dĩ nhiên, giống như mọi người, tôi cũng muốn đi biệt phái ở những chỗ có nhiều “em gái hậu phương” để vi vút như Phan Thiết, Đà Lạt, Lâm Đồng hay Ban Mê Thuột, nhưng biết thân phận mình chỉ là thiếu úy mới ra trường, giờ bay mới hơn trăm giờ, chưa bằng giờ ... đau lậu của đàn anh cho nên tôi không dám có ý kiến. Hơn nữa, tôi còn trẻ, lại có tí máu mạo hiểm trong người, cũng muốn xem thử cái chiến trường tam biên nó hung hãn như thế nào mà báo chí nói quá chừng, muốn xem thử quân ta đánh đấm ra sao...
Thế là, một buổi sáng đẹp trời, tôi và đại úy Nguyễn Minh Huy khăn gói lên đường, cất cánh chiếc L-19 lấy hướng đi Pleiku. Tôi biết chiến trường Pleiku chẳng hiền lành gì nhưng người ta sao mình vậy, ráng tập cho quen...
(Lúc ấy, tôi cũng không ngờ, cả cuộc đời binh nghiệp ngắn ngủi của tôi gần 4 năm, Pleiku và Phù Cát, hai biệt đội hắc ám nhất, buồn nhất và nguy hiểm nhất của phi đoàn chính là chỗ mà tôi "được" đi biệt phái nhiều nhất. Vì tôi bay rất nhiều và rất hăng, tôi còn nhớ mình đã lấy được rất nhiều huy chương, nhận được nhiều lời khen thưởng, nhưng một buổi sáng, tình cờ vào phòng nhân viên ở sư đoàn mở hồ sơ quân bạ ra coi thử, tôi thấy tôi chỉ có một cái Phi Vụ bội tinh là cái không ai có thế ăn cắp được, còn bao nhiêu cái huy chương khác, và đặc biệt cái ngành dương liễu (Tham mưu trưởng của tướng Toàn đích thân gọi máy lấy tên tôi và số quân) thì đã không cánh mà bay. Mới đầu tôi giận lắm nhưng sau ngồi nghĩ lại, tôi thấy có người phải cần những cái huy chương này của tôi hơn tôi, thôi thì để cho họ. Phần tôi, lúc ấy đeo lon thiếu úy đã gần 4 năm và không hề lấy thế làm buồn, Việt Cộng bắn tôi hoài mà không... rụng nổi thì mừng rồi, nhằm nhò gì ba cái đó. Tôi chẳng cần những thứ đó. Hơn nữa, thân phận thiếu úy thấp cổ bé miệng, có muốn đi kiện cũng không biết kiện ai. Tôi khoái ... đi nhậu và bù khú với bạn bè hơn là ngồi đếm xem thử mình có được bao nhiêu cái huy chương, tính coi chừng nào mình mang lon trung úy ... Cũng xin nói thêm, “ban kiểm duyệt” xin đừng đục bỏ khúc này của tôi. Nếu đăng được thì cho đăng nguyên con, còn không thì thôi. Xin đa tạ.)
Sáng hôm đó, phải từ giã một thành phố tươi đẹp miền duyên hải, nơi có người mình yêu, nơi có không biết bao nhiêu là bạn bè thì buồn và nhớ lắm, nhưng khi tôi bay nửa đường, thò tay đổi UHF sang tần số Picock để báo cáo thì tôi giật mình ngay...
Tôi phải nói thêm ở đây, một người phi công chưa cất cánh lên trời nhưng có thế biết ngay được chiến trường đang sôi động hay im lìm ở ngay giây phút người ấy mở máy gọi đài kiểm báo. Nếu đài kiểm báo bận rộn tơi bời, mình chờ mãi không nói được ấy là chiến trường đang đụng nặng lắm, tàu bay lên xuống ầm ầm, xin phép và báo cáo đủ thứ, phải chờ cho đến phiên mình. Tôi vừa bật sang tần số đài kiểm báo Picock thì nghe được không biết bao nhiêu là traffic. Khu trục gọi, trực thăng gọi, vận tải gọi, hết Việt Nam rồi đến Tây gọi, tiếng Việt tiếng Mỹ văng đầy trời đất cứ loạn cả lên làm cho anh thiếu úy sữa ... mới ra trường chẳng biết mẹ gì chới với. May nhờ ngài đại úy Huy giúp, báo cáo và xin đầy đủ chi tiết về tác xạ pháo binh nơi Pickock.... (Chỉ sợ nhất là đang bay mà nhìn thấy bom của B-52 rơi lả tả xuống sát ngay bên cánh tàu bay của mình. Cái này chúng tôi gọi là pháo binh nặng.)
Rời tần số đài kiểm báo sang tần số phi trường, cũng vẫn bận rộn liên miên. Khi phi trường Pleiku cuối cùng hiện ra dưới mắt tôi, càng nhìn thì tôi càng thấy muốn hoa mắt. Mẹ kiếp, sao mà lắm tàu bay thế này?
Phi đạo khá dài và phi trường rất là lớn nhưng lại bận rộn vô cùng với hàng trăm phi cơ Mỹ Việt xin hạ cánh hay cất cánh cứ loạn cả lên. Nhưng tôi thích nhất là những chiếc khu trực cơ Skyraider A-1 nằm đẹp đẻ oai vệ trong những ụ vuông hay đang di chuyển để chuẩn bị cất cánh, bom đeo lòng thòng. Chong chóng phi cơ quay chậm từng vòng, con tàu rung lên từng chập và thong thả lăn bánh đi coi oai phong lẫm liệt như những chúa sơn lâm trước giờ giao đấu...
Đang di chuyển phi cơ theo lời chỉ bảo của đại úy Huy thì đạn pháo kích rớt ầm ầm. Đài kiềm soát la nhặng lên là phi trường bị pháo, phi trường bị đóng cửa... (Mẹ, pháo rớt xuống cả chục trái rồi quý vị mới la toán lên, làm như chúng tôi không biết ấy. Sao lúc nãy không la hộ cho chúng tôi nhờ?)
Chúng tôi tắt máy, phóng xuống khỏi phi cơ, chạy đi tìm một chỗ trốn. Tôi sợ vãi đái ra quần cứ nhìn quanh quất làm như mình có thần nhãn để tìm pháo, nhưng đại úy Huy thì lại tà tà, chẳng coi ra gì. Lâu lâu lại còn nhìn tôi cười nhẹ, nhưng không nói gì...
Đấy, phi trường Cù Hanh thành phố Pleiku đã chào đón ông thiếu úy sữa như thế đấy. Mẹ, hú cả hồn, teo cả chim...
Sau vài trái pháo cầu may chẳng chết ai, còi báo động chấm dứt, chúng tôi lại leo lên phi cơ, di chuyển về bãi đậu của biệt đội. Tại đây, phi hành đoàn của biệt đội cũ, khăn gói đồ đạc đã chuẩn bị sẵn sàng, chờ chúng tôi dưới cánh tàu bay chuẩn bị bàn giao. Mấy ông phi công ... già trải tấm bản đồ trên capo chiếc xe díp, chỉ chỉ chỏ chỏ, dặn dò và chừi thề tùm lum, nào là sư đoàn 23 làm việc chỗ này, sư đoàn 22 chỗ này, coi chừng chỗ này có phòng không, chỗ kia có thể đáp khẩn cấp nếu bị bắn...
Tôi nghe như vịt nghe sấm, chẳng hiểu được một tí gì, nhưng mà càng nghe thì càng nản. Quả thật tôi chính là thiếu úy sữa, giờ bay đếch bằng giờ đau lậu của đàn anh, chẳng biết mẹ gì....
Đang nói chuyện chưa đâu vào đâu, lại có chiếc xe díp màu xanh thắng gấp gần đó nghe rùng rợn. Đại úy Hạnh alô bước xuống, bộ đồ trê di nhầu nát, áo bỏ ngoài quần, chẳng lon chẳng lá, râu ria chẳng cạo, chân mang dép, “mặt mày có vẻ không vui”, chưa kịp chào ai, ngài đại úy đã sủa vang:
-Cái biệt đội 114 này làm việc hay thật. Mẹ, lần nào cũng thế, hễ hôm nào có đổi biệt đội là phi cơ cất cánh trễ tùm lum. Quân đoàn réo quá trời, mấy ông làm ơn...
Nói tới đó thì đại úy Hạnh nhận ra đại úy Huy, cũng là chỗ bạn bè cũ, cùng khoá, liền xuống giọng:
-Ôi giời, Huy, mày cho một chiếc L-19 cất cánh gấp. Tụi nó đụng tùm lum...
Đại úy Huy chắc cũng đang sầu đời vì bị đày làm lính thố miền cao, liền chủi thề:
-Cất cánh ... C... tao. Tụi 118 cũng có một phi đoàn ở đây, cũng ăn lương chính phủ như tao, sao không bảo tụi nó cất cánh đi mà phải chờ tới 114 tụi tao. Mẹ, toàn là những chuyện bất công vô lý...
Đại úy Hạnh, dân “tam biên oai trấn” cũng đã nhiều năm, không dễ gì để bị ăn hiếp, liền đáp:
-Mày muốn kiện thì lên quân đoàn mà làm đơn, tao sẵn sàng ký phụ cho mày. Thằng này chỉ là Alô phắc hạng bét, đừng có kiếm chuyện với tao...
Nói thì ngon như thế nhưng đại úy Huy lại quay sang tôi, ngón tay chỉ vào một chỗ trên bản đồ nằm ở phía Bắc Kon Tum:
-Mình làm việc chỗ này. Em lấy toạ độ, phương hướng, tác xạ pháo, mình cất cánh liền...
Đại úy Hạnh quay trở lại chiếc xe díp, miệng cười cười:
-Ráng chịu khó đi, sáng mai tao mời mày đi ăn sáng với tao. Tao biết chỗ này có một em thơm lắm...
Thế là chúng tôi quẳng hết hành lý lên chiếc xe díp cho nhẹ tàu rồi cho tàu đổ xăng, gắn rocket và chuẩn bị cất cánh. 10 phút sau, tôi và đại úy Huy đã ra so hàng ở cuối phi đạo. Thử máy và sau khi tháo khoá an toàn rocket xong, tôi bấm máy:
-Pleiku, Mustang 10 cuối đường bay, xin ra phi đạo cất cánh...
Tàu vừa cất cánh, lấy đủ một chút cao độ là đại úy Huy làm việc như một cái máy. Trên L-19 có 3 cái PRC-25, 1 VHF, 1 UHF, nhưng ngài đại úy có đến 10 ngón tay nên ngài sử dụng không thiếu cái nào. Cái gọi cho bộ chỉ huy Trung Đoàn, cái gọi cho Tiểu Đoàn, cái liên lạc với Alô để xin những chỉ thị mới nhất, cái liên lạc với Picock hay khu trục.
Lần đầu tiên được trực tiếp tham gia vào cuộc chiến chống xâm lăng để bảo vệ quê hương mình, tôi cảm thấy hào hứng vô cùng. Hào hứng đến độ coi thường những hiểm nguy đầy dẫy quanh tôi lúc ấy... Đó là lần đầu tiên tôi nghe được qua máy vô tuyến những giọng nói của anh em bộ binh đang hành quân duới đất, lần đầu tiên được nhìn thấy cảnh bom rơi đạn nổ, những cảnh trận địa pháo nát người, tan đất... Đó là lần đầu tiên tôi biết được thế nào là sự hy sinh của hững người lính QLVNCH. Sau này, tôi đã nhìn thấy cảnh những chiếc khu trục bị bắn nổ tung trên trời hay bắn rớt, những chiếc trực thăng bị bắn bốc lửa, vân vân và vân vân...
Kính thưa quý vị, đó là phi vụ hành quân đầu tiên của tôi ở Pleiku. Một phi vụ hành quân đầu đời của một ông thiếu úy sữa. Phi vụ chẳng có gì đặc sắc, hào hứng hay hào hùng. Chỉ là một phi vụ đơn giản như trăm ngàn phi vụ anh em bay thời đó. Nhưng đó là phi vụ hành quân đầu tiên của tôi, tôi không thể nào quên được..
Những năm tiếp theo đó, cứ mỗi tháng một lần, tôi lại xách tàu bay đi biệt phái Pleiku. Có lúc chiến trường trở nên đẫm máu, cũng có lúc chẳng có đánh đấm gì. Và càng về sau thì tôi càng quen thuộc với phi trường, với địa hình, địa thế. Nhưng suốt gần 4 năm, hình như tôi chỉ theo anh em ra phố Pleiku có một vài lần để nhậu nhẹt. Những lúc còn lại, khi nào không bay bổng, tôi nằm khì trong barrack đọc sách. Có nhiều lần biệt phái trúng vào mùa mưa, chúng tôi nằm trong barrack gần suốt hai tuần lễ, vừa đọc sách vừa nghe tiếng mưa rả rích chung quanh, lâu lâu ngồi dậy, rít một điếu thuốc Capstan, nhìn mưa rơi nhạt nhoà qua khung cửa sổ, nghĩ lại cũng thấy thú lắm.
Thành thực mà nói, mỗi lần tôi đi biệt phái lên đây, nhớ bồ nhớ bịch, tôi đếm từng ngày, chỉ mong tới ngày để về vùng nắng biễn Nha Trang hiền hoà ấm áp với em, trong một thành phố có đủ thứ tiết mục ăn chơi... Vì thế, nếu có ai hỏi tôi về thành phố Pleiku, tôi xin trả lời là tôi chẳng biết gì nhiều...
Tôi chẳng biết gì nhiều nhưng tôi thấy khâm phục những người lính đã một thời oai trấn tam biên. Các anh em đã chấp nhận sống một cuộc đời âm thầm ở cái thành phố nhỏ miền núi buồn heo hắt này, tập làm bạn với núi, làm quen với rừng, chịu đựng những cơn mưa rừng kéo dài vô tận mà không hề lên tiếng than thở hay phân bì. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, anh em đã âm thầm và anh dũng gìn giữ từng tấc đất, từng phân đường, từng dúm cỏ của vùng đất xa lạ này của quê hương.
Anh em chính là những người, như một nhà văn nào đó đã nói, đã chấp nhận làm bóng tối để nuôi dưỡng mặt trời.
Năm 75, thành phố Pleiku di tản. Tôi bay trên con đường quốc lộ số 7, chảy nước mắt và đứt từng khúc ruột nhìn đồng bào tôi, quân đội tôi tan vở thành từng mảnh ở phía dưới mà không làm gì được.
Từ năm 1972, ngày bay phi vụ đầu đời cho đến năm nay là năm 2010, chỉ còn thiếu 1 năm vài tháng nữa là đúng 40 năm. 40 năm một đời người trôi qua nhanh như một giấc mộng. Nhưng nhớ lại, hồi đó, 15 ngày biệt phái Pleiku sao mà dài thăm thẳm...
Vài hàng viết về Pleiku để kính tặng những người anh hùng biên trấn, những chiến sĩ của QLVNCH đã vị quốc vong thân cho chúng tôi được sống an toàn. Đồng thời, cũng tưởng nhớ đến những đồng bào đã bỏ mình oan nghiệt và tức tưởi trong cuộc di tản trên tỉnh lộ 7 năm 1975. Chết trên đường đi tìm tự do.
Sau ngày 30 tháng 4, tôi lưu vong nơi quê người, sống ở chốn phồn hoa đô hội, thừa mứa vật chất, giữa những tiếng cười đùa vui vẻ và vô tội của người chung quanh, tôi cũng giả cười và vui với họ để khỏi bị coi là khác người, nhưng chẳng ai biết linh hồn tôi là một linh hồn rướm máu, là một biển lửa hận thù. Không rướm máu làm sao được khi mà mỗi lần cầm chén cơm lên ăn là mỗi lần nước mắt tôi lả chả rơi xuống bát, tự hỏi giờ này, ở Việt Nam, cha mẹ anh em tôi ăn gì, những bạn bè đồng đội của tôi đang bị đối xử ra sao, còn sống hay đã chết? Ăn một miếng ngon tôi cũng thấy mình có tội. Có tội với những anh em đồng đội tôi còn kẹt lại ở Việt Nam, giờ nay không biết sống chết như thế nào. Tôi chẳng yêu nước hay anh hùng hơn ai, tôi chỉ là một người còn có chút lương tri, biết yêu thương và có chút ít tình cảm...
Có lần, một em bé tóc vàng làm trong sở hỏi tôi, “Mày có nhớ nhà không?”
Tôi mau mắn lắc đầu và trả lời: “Không.”
Em bé tóc vàng trợn mắt, lắc đầu, chê tôi là người vô tình.
Tôi chỉ cười nhẹ, nói: “Tối nào tao cũng về thăm quê nhà tao ở Việt Nam cả, làm sao tao còn nhớ nhà được... (How can I miss home when I come back to visit my home in Vietnam every night?)
Em bé tóc vàng ôm tôi khóc và xin lỗi tôi... (Người Mỹ đơn giản và dễ thương thật)
Cuối cùng, nhân bài này, cho phép tôi xin viết vài hàng để tưởng nhớ đến thằng em ruột tôi, cố Trung Sĩ Nhất Lê Xuân Bích, Sư đoàn 23 bộ binh, đã bỏ mình tại chiến trường Cao Nguyên Tân Cảnh mùa hè năm 1972. Em đã đại diện gia đình mình để đóng góp xương máu gìn giữ quê hương như bao nhiêu gia đình Việt Nam khác. Chuyện này cũng bình thường, chẳng có gì đáng nói trong một quê hương chiến tranh, nơi có hàng ngàn người trai trẻ như em đã nằm xuống mỗi ngày. Tổ quốc đã ghi ơn. Bích ơi, dù em không còn nữa nhưng hình ảnh tươi đẹp và hào hùng của em đã sống dậy mỗi một ngày trong lòng mọi người gia đình ta, đặc biệt là anh, người đã chia xẻ với em bao nhiêu kỷ niệm buồn vui từ thuở ấu thời cho đến ngày hai anh em mình gạt nước mắt chia tay nhau lên đường đi lính. Em chết chỉ một lần nhưng gia đình mình mỗi lần nhắc đến em thì ai cũng chết thêm một lần nữa ở trong lòng, thương nhớ em vô cùng vô tận...
Ôi, Pleiku, thành phố mưa buồn đất đỏ, kỷ niệm buồn sao nhiều lắm thay...
Đồng thời, ghi nhận công ơn của những người đã chọn phố núi Pleiku làm quê hương thứ hai...
No comments:
Post a Comment